Đặc biệt, Trường Đại học Vinh đứng thứ 4 (Sau Đại học Quốc gia TP. HCM, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) về tỷ lệ phần trăm tác giả corresponding author trong các bài báo thuộc top 10% ảnh hưởng cao nhất.


Ban Biên tập website tổng hợp thông báo của nhóm tác giả như sau:

 

==========

 

[TOP 15 CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM VỀ CÔNG BỐ ISI (GIAI ĐOẠN 2011 - 2015) - PHẦN 1]

 

CÁC CHỈ SỐ ĐƯỢC LỰA CHỌN:

Bên cạnh chỉ số về Số lượng là số bài báo khoa học được công bố trên các tập san thuộc danh mục ISI trong giai đoạn 2011-2015 (tính đến 26/10/2015), nhóm tác giả chọn chỉ số Số lượt các bài báo kể trên được được trích dẫn (có xét đến chỉ số tự trích dẫn) và chỉ số H-index trong cùng giai đoạn làm đại diện cho thông tin về Chất lượng (của các bài báo). Xem thêm [1].

Nhóm tác giả không chọn chỉ số tần suất (citation rate) làm đại diện cho thông tin về Chất lượng vì phân bố của các trích dẫn về các bài báo quốc tế thuộc ISI trong giai đoạn 2011-2015 không phải phân bố chuẩn (normal distribution) và gặp phải vấn đề về độ lệch (skewness). Ngay chính Thomson Reuters cũng đã nhấn mạnh rằng phân bố của chỉ số trích dẫn thường có độ lệch rất lớn, vì vậy, không nên dùng chỉ số chỉ số tần suất trích dẫn để đại diện cho xu hướng tập trung của phân phối (central tendency of the distribution). Xem thêm [2].

Trong phần 1 này, nhóm tác giả công bố các chỉ số về Số lượng các bài báo được công bố trên ISI, Số lượng trích dẫn của các bài báo đó, Chỉ số H-index của trường. Trong phần tiếp theo, nhóm tác giả sẽ công bố các chỉ số về Số lượt các bài báo được trích dẫn sau khi đã loại trừ tự trích dẫn, Tỷ lệ tăng trưởng số bài báo được công bố trên ISI qua từng năm, Tỷ lệ đàm nhiệm vai trò tác giả đầu (first author) hoặc tác giả đầu mối (corresponding author) của các giảng viên, nghiên cứu viên của trường trong số các bài thuộc H-index của trường.

Ngoài các chỉ số kể trên, nhóm tác giả tin rằng, nếu có thời gian để tiếp tục tính toán hoặc nếu được truy cập thông tin, thì một số chỉ số sau đây cũng rất có ý nghĩa để tham khảo, cụ thể:

- Tỷ lệ số lượng bài báo được công bố/ tổng số giảng viên, nghiên cứu viên của các trường

- Tỷ lệ số lượng bài báo được công bố/tổng kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học của các trường

- Chỉ số tần suất trích dẫn chuẩn hoá (standardized citation rate) giữa của các trường

- Tỷ lệ số lượng bài báo được công bố từ các nguồn/quỹ KHCN khác nhau (vd giữa NAFOSTED với các nguồn khác)

- Tỷ lệ số lượng bài báo từ nguồn nội lực (các tác giả hoàn toàn trong nước) so với các bài báo có ngoại lực (các tác giả bao gồm cả trong và ngoài nước)

QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP THU THẬP DỮ LIỆU

Trong tháng 10/2015, nhóm tác giả tiến hành thu thập toàn bộ dữ liệu của cho bảng kết quả dưới đây từ cơ sở dữ liệu ISI của Thomson Reuter tại địa chỉ www.webofknowledge.com.

Đầu tiên, tại vòng 1, 15 trường có nhiều bài báo nhất được lọc ra. Sau đó, tại vòng 2, nhóm tác giả tính toán các chỉ số tổng số lượt trích dẫn và H-index đối với các bài báo được chọn ra trong vòng 1 và xếp hạng các trường theo từng tiêu chí tương ứng.

Ngoài việc dùng từ khoá là tên tiếng Anh của các cơ sở giáo dục đại học (sau đây gọi tắt là trường) của Việt Nam hiện đang được sử dụng, riêng với các ĐHQG và ĐH vùng, nhóm tác giả còn sử dụng thêm cả tên trường ĐH thành viên để tìm kiếm. Đối với những trường hợp tên có khả năng nhầm lẫn cao (vd như, Univ Sci có thể thuộc ĐHQG Hà Nội hoặc ĐHQG HCM hoặc ĐH Huế), phương pháp kiểm tra thủ công từng bài được áp dụng. Phương pháp trên giúp tối ưu hóa ở mức độ cao đối với tính đáng tin cậy của dữ liệu mà nhóm nghiên cứu đã khám phá ra.

Một khó khăn là tên tiếng Anh của các trường đại học Việt Nam chưa thống nhất và hay dễ lẫn lộn với nhau. Vì vậy, để đảm bảo không bỏ sót bài báo hay không nhầm bài báo của trường này sang trường khác, ngoài tên gọi chính thức bằng tiếng Anh được lấy từ website của các trường, nhóm tác giả sử dụng thêm các tổ hợp cú pháp có liên quan khác để tìm dữ liệu (ví dụ Vietnam National University, Hanoi hay Hanoi National University đều chỉ ĐHQGHN hoặc Da Nang University hay Danang University đều để chỉ ĐH Đà Nẵng).

Bằng cách làm trên, các trường đại học Việt Nam có số lượng bài báo khoa học được công bố trên các tập san thuộc ISI được đưa vào danh sách đánh giá của nhóm tác giả.

Nhóm tác giả: Hien Huynh, Hiep Pham & Abraham Tran.

___________________________________

[1] http://researchguides.uic.edu/c.php?g=252299&p=1683205

[2] http://ipscience-help.thomsonreuters.com/…/citationRatesBas…

Disclaimer: Nhóm tác giả lưu ý thứ tự của từng trường trong các bảng ở hình này chỉ phản ánh vị trí của trường đó theo tên chỉ số tương ứng; ngoài ra, không đại diện cho bất kỳ chỉ số/thông tin nào khác. Đồng thời, nhóm tác giả không chịu trách nhiệm về bất kỳ sự suy diễn ý nghĩa nào khác ngoài 3 chỉ số đã nêu trong hình này

 

==========

 

[TOP 15 CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM VỀ CÔNG BỐ ISI (GIAI ĐOẠN 2011 - 2015) - PHẦN 2]

 

Tiếp theo Phần 1 - Top 15 cơ sở GD ĐH Việt Nam về công bố ISI (2010 - 2015) đã công bố, nhóm tác giả tiếp tục công bố Phần 2, trong đó CÁC CHỈ SỐ ĐƯỢC CHỌN ở Phần 2 này bao gồm:

1. Tổng số lượng trích dẫn không kể số lượng tự trích dẫn (xem thêm [1]);

2. Chỉ số H nội lực (chỉ tính các bài báo có tác giả thuộc cơ sở GD ĐH tương ứng là tác giả liên hệ-corresponding author) (xem thêm [2]).

3. Tỷ lệ % số bài có tác giả thuộc cơ sở GD ĐH tương ứng là tác giả liên hệ tính trong số 10% số bài báo có tác động cao nhất (có số lượt trích dẫn lớn nhất) của từng cơ sở GD ĐH (xem thêm [3]);

MỘT SỐ ĐÍNH CHÍNH, BỔ SUNG TRONG PHẦN 2:

Sau khi Phần 1 được công bố, nhóm tác giả đã nhận được khá nhiều phản biện, góp ý của các đồng nghiệp trong và ngoài nước. Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn sự quan tâm quý báu này. Tiếp thu phản biện, góp ý kể trên, trong Phần 2 này, nhóm tác giả xin có 1 số đính chính, bổ sung như sau:

a. Trong Phần 1, 13 bài báo của Trường ĐH KH&CN Hà Nội (tên Tiếng Anh là Vietnam - France University hay University of Science and Technology of Hanoi - USTH) đã được tính nhầm cho Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội (Hanoi University of Science and Technology - HUST hay Hanoi University of Technology - HUT). Trong phần 2 này, nhóm tác giả đã trừ đi số bài nhầm lẫn kể trên. Số liệu của Phần 1, sau khi đã tính trừ đi 13 bài này đã không làm thay đổi vị trí của Trường ĐH BK Hà Nội, xin vui lòng xem bản chỉnh sửa tại [4]. (Xin chân thành cảm ơn anh Tạ Hải Tùng, Trường ĐH Bách Khoa HN đã góp ý nội dung này).

b. Về QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP THU THẬP DỮ LIỆU, sau khi trả lời các thắc mắc của bạn Duy Vu từ Phần 1, nhóm tác giả xin được viết lại cho tường minh như sau:

Trong tháng 10/2015, nhóm tác giả tiến hành thu thập toàn bộ dữ liệu của cho bảng kết quả dưới đây từ cơ sở dữ liệu ISI của Thomson Reuter tại địa chỉ www.webofknowledge.com

Đầu tiên, tại vòng 1, 15 trường có nhiều bài báo nhất được lọc ra. Sau đó, tại vòng 2, nhóm tác giả tính toán các chỉ số khác với các bài báo được chọn ra trong vòng 1 và xếp hạng các trường theo từng tiêu chí tương ứng.

Ngoài việc dùng từ khoá là tên tiếng Anh của các cơ sở giáo dục đại học (sau đây gọi tắt là trường) của Việt Nam hiện đang được sử dụng, riêng với các ĐHQG và ĐH vùng, nhóm tác giả còn sử dụng thêm cả tên trường ĐH thành viên để tìm kiếm. Đối với những trường hợp tên có khả năng nhầm lẫn cao (vd như, Univ Sci có thể thuộc ĐHQG Hà Nội hoặc ĐHQG HCM hoặc ĐH Huế), phương pháp kiểm tra thủ công từng bài được áp dụng. Phương pháp trên giúp tối ưu hóa ở mức độ cao đối với tính đáng tin cậy của dữ liệu mà nhóm nghiên cứu đã khám phá ra.

Một khó khăn là tên tiếng Anh của các trường đại học Việt Nam chưa thống nhất và hay dễ lẫn lộn với nhau. Vì vậy, để đảm bảo không bỏ sót bài báo hay không nhầm bài báo của trường này sang trường khác, ngoài tên gọi chính thức bằng tiếng Anh được lấy từ website của các trường, nhóm tác giả sử dụng thêm các tổ hợp cú pháp có liên quan khác để tìm dữ liệu (ví dụ Vietnam National University, Hanoi hay Hanoi National University đều chỉ ĐHQGHN hoặc Da Nang University hay Danang University đều để chỉ ĐH Đà Nẵng).

Trong một số trường hợp, nhóm tác giả phát hiện một số bài báo có tên trường bị sai chính tả; ví dụ DUY TAN UNIV bị viết nhầm thành DAY TAN UNIV. Trong trường hợp này, nhóm tác giả vẫn tính bài cho trường có tên tương ứng. 

Trong một số trường hợp khác, tên một số trường lại trùng với tên địa danh (đường phố)của một trường khác đặt trụ sở. Ví dụ Trường ĐH Sư phạm thuộc ĐH Đà Nẵng có địa chỉ tại Đường Tôn Đức Thắng. Vì vậy, khi chọn từ khoá TON DUC THANG để tìm số bài báo của trường ĐH Tôn Đức Thắng sẽ tìm ra kết quả bài báo của tác giả từ Trường ĐH Sư phạm thuộc ĐH Đà Nẵng. Trong trường hợp này, bài báo trên không được tính cho Trường ĐH Tôn Đức Thắng.

MỘT SỐ THÔNG TIN ĐANG ĐƯỢC NHÓM TÁC GIả TÍNH TOÁN VÀ DỰ ĐỊNH SẼ CÔNG BỐ TRONG CÁC PHẦN TIẾP THEO:

- Số lượng công bố ISI của các cơ sở GD ĐH thuộc top 15 theo từng phân ngành khoa học.

- Số lượng trích dẫn trong ISI của các cơ sở GD ĐH thuộc top 15 theo từng phân ngành khoa học.

- Số lượng trích dẫn không kể tự trích dẫn trong ISI của các cơ sở GD ĐH thuộc top 15 theo từng phân ngành khoa học.

- Tỷ lệ % số bài có tác giả thuộc cơ sở GD ĐH tương ứng là tác giả liên hệ (corresponding author) theo từng phân ngành khoa học.

 

Nhóm tác giả: Hien Huynh, Hiep Pham & Abraham Tran.

___________________________________

[1] http://wokinfo.com/essays/journal-self-citation-jcr/

[2] http://www.leidenranking.com/methodology/indicators

[3] Hu X.J., Rousseau R., Chen J. In those fields where multiple authorship is the rule, the h-index should be supplemented by role-based h-indices. Journal of Information Science 36 (1) (2010) 73-85. doi:10.1177/0165551509348133

[4] https://sites.google.com/site/scientometrics4vn/Top15.jpg

Disclaimer: Nhóm tác giả lưu ý thứ tự của từng trường trong các bảng ở hình này chỉ phản ánh vị trí của trường đó theo tên chỉ số tương ứng; ngoài ra, không đại diện cho bất kỳ chỉ số/thông tin nào khác. Đồng thời, nhóm tác giả không chịu trách nhiệm về bất kỳ sự suy diễn ý nghĩa nào khác ngoài 3 chỉ số đã nêu trong hình này.