Nhân dịp kỷ niệm 55 năm thành lập Trường (1959 - 2014), để các thế hệ cán bộ, sinh viên có dịp ôn lại nhiều kỷ niệm, Ban Biên tập website trích đăng lại các bài viết của các nhà giáo, cựu sinh viên trong các lần kỷ niệm 40, 45, 50 năm thành lập Trường.
 
 
NHÀ GIÁO NHÂN DÂN NGUYỄN THÚC HÀO
TRONG TÂM KHẢM CHÚNG TÔI
 
Nguyễn Văn Hùng - viết năm 2004
(ghi theo lời kể của NGƯT. Lê Bá Hán - nguyên CBGD khoa Văn)
 
            Vào một buổi sáng mùa Thu năm 1959, GS. Nguyễn Thúc Hào cùng với một số cán bộ đang công tác trong ngành giáo dục ở Hà Nội được Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên mời lên văn phòng Bộ, giao trọng trách chuẩn bị lên đường vào Nghệ An để thành lập, xây dựng Phân hiệu ĐHSP Vinh.
            Tôi nhớ, bộ môn Toán ngoài thầy còn có các anh Nguyễn Văn Chù, Văn Như Cương, Hoàng Kỳ… Bên Văn có các anh Lê Hoài Nam, Nguyễn Khắc Phi, tôi… Năm đó, GS. Nguyễn Thúc Hào đã 47 tuổi, đang giữ chức Phó Giám đốc Trường ĐHSP Hà Nội. Chúng tôi còn rất trẻ, tôi tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội năm 1975, mới ra dạy được 2 năm tại trường thì trở về quê hương xứ Nghệ. Thú thật, đang yên ổn ở Hà Nội, song phải vào gắn bó lâu dài với mảnh đất miền Trung nghèo khó, thiên nhiên nghiệt ngã, tâm lý ai cũng ngần ngại, nhưng trong lòng cũng có phần hăm hở và nuôi nhiều dự định…
            Đến Vinh - một thị xã còn hoang tàn, đổ nát sau những năm tiêu khổ kháng chiến, gia đình thầy Hào cùng với 16 cán bộ giảng dạy đầu tiên về Trường, tá túc ở gác hai khu nhà Dòng (Bệnh viện thành phố Vinh ngày nay). Cái ăn, cái mặc và đồ dùng trong nhà thầy Hào hết sức giản dị, tiết kiệm. Cô Dung - vợ thầy là người Huế, bản tính hiền dịu đoan trang, được bố trí làm việc tại thư viện Nhà trường. Thầy Hào được Bộ Giáo Dục bổ nhiệm làm Giám đốc Phân hiệu ĐHSP Vinh. Những năm đầu, đây là một trường ĐHSP đầu tiên đóng trên một địa phương xa Thủ đô. Bởi vậy, từ Giám Đốc đến đội ngũ cán bộ giảng dạy, quản lý và anh chị em sinh viên (khóa 1 có 158 sinh viên Văn, Toán) gặp phải vô vàn khó khan, thiếu thốn. Trong bối cảnh đó, vị trí, vai trò, tài năng và đức độ của thầy Nguyễn Thúc Hào càng có dịp bộc lộ và được khẳng định.
            Trước hết, tôi xin nói, đó là một nhà giáo mẫu mực, một nhà sư phạm rất tâm huyết với nghề. Tuy bận rội trong công tác quản lý, thầy vẫn thường xuyên dự những buổi sinh hoạt chuyên môn với khoa Toán và tham gia lên lớp sinh viên. Các nội dung Toán học, dù rắc rối, "cao siêu" mấy đi nữa, vẫn được thầy trình bày mạch lạc, sang sủa, dễ hiểu, dễ nắm với một lượng từ hết sức tiết kiệm. GS. Nguyễn Thúc Hào bao giờ cũng điềm đạm, ứng xử có văn hóa, bào dung với mọi người. Ở thầy khả năng điều hành, quán xuyến công việc thể hiện rõ ngay từ những năm đầu thành lập trường. Tôi còn nhớ, sau khai giảng khóa 1, Giáo sư đã có chủ trương mở rộng đại học hàm thụ, dạy vào ban đêm ngay tại trường. Chủ trương này được cả người học và người dạy rất hoan nghênh, nên Trường Vinh ngay từ những tháng đầu tiên nghiễm nhiên trở thành một trung tâm giáo dục hấp dẫn (lúc bấy giờ ở miền Bắc, chưa nơi nào mở lớp đại học hàm thụ). Không khí dạy và học căng thẳng lắm nhưng cũng thật háo hức. Thầy Hào trực tiếp chỉ đạo các phòng ban quan tâm thường xuyên tới đời sống tinh thần cũng như vật chất của cán bộ và sinh viên. Hình ảnh thầy Hào xuống tận các bếp ăn tập thể để xem xét, góp ý kiến hay đến các Tổ bộ môn (không chỉ riêng khoa Toán) cùng sinh hoạt, nói cười với anh em… đến tận hôm nay vẫn còn in đậm trong tâm trí nhiều người. Tôi làm cán bộ Công đoàn suốt 15 năm nên may mắn có dịp tiếp xúc với Thầy ngay tại nhiều cuộc họp. Chưa bao giờ, tôi thấy Thầy nổi nóng với một ai. Một số ý kiến gay gắt của đồng chí mình, Thầy vẫn bình tĩnh lắng nghe. Cái đúng thì sẵng sàng tiếp thu cái chưa đúng thầy xin phép được giải trình trở lại. Đối với những cán bộ phạm sai lầm, Thầy vẫn bình tĩnh giải quyết mọi chuyện êm thấm theo phương châm giáo dục là chính, không đe nẹt ai bao giờ. Bởi vậy, người có khuyết điểm vừa nhận ra lỗi lầm của mình vừa thầm phục và biết ơn nhân cách lớn.
            Một điều đáng nói nữa là GS. Nguyễn Thúc Hào rất tôn trọng đội ngũ cán bộ giảng dạy trẻ, tin cậy họ khi giao việc và động viên kịp thời khi thấy họ có nhiều cố gắng.
            Tôi ngẫm ra rằng: trong con người GS. Nguyễn Thúc Hào có sự kết hợp tinh tế, hài hòa giữa nhà sư phạm, nhà khoa học và nhà quản lý. Nhờ vậy, việc làm và tiếng nói của Thầy rất có trọng lượng, là trung tâm thu hút nhân tâm, nhân tài của Trường ĐHSP Vinh trong suốt 15 năm thầy có mặt tại trường (1959 - 1975).
            Tiếng lành đồn xa, nhiều cán bộ lãnh đạo Tỉnh Nghệ An lúc bấy giờ, trong đó có Bí thư Tỉnh ủy Võ Thúc Đồng rất quý thầy Hào. Còn với nhiều đồng nghiệp và học trò của Thầy thì khỏi phải nói. GS. Nguyễn Thúc Hào tròn 70 tuổi, Trường ĐHSP Vinh cho xe ra Hà Nội đón thầy về Vinh tổ chức lễ mừng thọ, không ngờ, buổi lễ lại trở thành buổi mít tinh trọng thể để tôn vinh một nhà giáo có công với Trường. Thầy Hào, cô Dung nghỉ hưu tại Hà Nội nhưng hàng năm cứ đến ngày sinh của Thầy, các thế hệ học trò gần xa kéo đến nhà Thầy rất đông để tặng hoa, đọc thơ chúc mừng thầy cô…
            Kỷ niệm 45 năm thành lập Trường Đại học Vinh, hình ảnh GS. Nguyễn Thúc Hào trong tôi lại hiện về rõ mồn một, đẹp một cách giản dị, lão thực. Đấy là một trí thức thật sự yêu nước, yêu quê hương, tận tụy với sự nghiệp giáo dục.
 
 
NHỚ THUỞ BAN ĐẦU
 
PGS.TS. Hoàng Kỳ
 
            Thấm thoắt thế mà đã 55 năm! So với lịch sử thì 55 năm chỉ là một khoảng khắc, nhưng so với con người thì đó là cả một đời công tác, có khi là cả một đời người. Là một trong mấy thầy giáo đầu tiên của Trường ĐHSP Vinh, của khoa Toán, những dịp này tôi không khỏi bồi hồi nhớ lại biết bao chuyện buồn, vui, bao gian khổ và thành công, bao kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng, bao gương tốt, bao tấm long vàng và cả một ít người xấu mà mình từng gặp, làm việc trong suốt quãng thời gian đó, nhất là trong những năm đầu, vì "Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy, Ngàn năm chưa đễ mấy ai quên".
            Hè năm 1959, trong một đợt học tập chính trị, chúng tôi được phổ biến là Chính phủ đã cho Quyết định mở một Trường ĐHSP mới đặt tại Vinh, với ý nghĩa đó là quê hương Xô viết và quê hương Bác Hồ kính yêu và đặc biệt đó là trường đại học xa nhất về phía nam của nền giáo dục XHCN, đó là "Ngọn cờ hồng trên quê hương Xô viết", là ngọn cờ đầu tiên trên tuyến đầu đấu tranh thống nhất nước nhà. Hồi đó, khắp nơi đang chiếu rộng rãi bộ phim Trung Quốc "Cờ hồng trên núi Thúy" nên thuật ngữ đó làm nức lòng các cán bộ trẻ chúng tôi rất nhiều. Hơn nữa, phong trào đi Tây Bắc, Việt Bắc đang rầm rộ, "đâu cũng là quê hương" lại thêm lời hứa của các đồng chí ở Vụ Tổ chức "Các đồng chí vào đó xây dựng trường mới, độ 3 năm ổn định rồi lại trở về Hà Nội" nên chúng tôi ra đi lòng thật thoải mái. Năm đầu tiên có 4 thầy giáo dạy Toán từ Hà Nội vào (Thầy Nguyễn Thúc Hào vào làm Hiệu trưởng, hồi đó còn gọi là Giám đốc, anh Nguyễn Văn Chù, anh Văn Như Cương và tôi, mới giảng dạy được 3 năm) đến Vinh có thêm 2 thầy giáo Toán được điều động về (anh Nguyễn Văn Bàng từ Trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng, anh Đào Luyện từ trường cấp 3 Phan Đình Phùng). Song học kỳ 1 năm đầu chỉ có 4 cán bộ môn Toán là Giải tích (anh Chù), Hình học sơ cấp (anh Cương) và Đại số sơ cấp (anh Kỳ). Còn môn Nga văn do anh Phúc, môn Chính trị học chung với lớp văn. Sau 3 năm, có đồng chí ra hỏi lại Vụ Tổ chức thì được biết là: "Không có văn bản nào nói thế" mà "Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên". Vả lại, lúc nào cũng có "một cái gì đó" đang chờ trước mắt: hoặc sắp tang thương, hoặc sắp kết nạp Đảng, hoặc sắp xếp kết nạp Đảng, hoặc sắp đi học Ngoại ngữ, thậm chí sắp đi nước ngoài... Cuối cùng, lớp thầy giáo đầu tiên ấy đã công tác tại Trường, tại Khoa ít nhất lài hai chục năm, nhiều nhất là bốn chục năm, hoặc đến khi về hưu hoặc về cõi vĩnh hằng (anh Chù).
            Cuối lớp học chính trị, anh Chù nhắn tôi đến gặp anh để cùng anh đến thư viện chọn sách cho Trường Vinh (một buổi khác, anh Chù đã cùng anh Cương làm việc ấy). Chúng tôi được phép vào các thư viện lớn, cứ thấy cuốn nào cần về Toán thì sắp riêng ra, lập thành danh mục và đóng thùng chở về Vinh. Về nguyên tắc, cuốn nào có từ 2 bản trở lên thì chúng tôi mới lấy, song có những cuốn sách quý chỉ có độc một bản mà chúng tôi vẫn xin được cho Vinh. Thật là một thời kỳ vàng son của tinh thần XHCN, của sự "hợp đồng tác chiến", trong không khí "Cả nước vì miền Nam". Nhờ thế mà trong thư viện đầu tiên của Trường các bộ sách toán quý hiếm đều có mặt. Tháng 10/1959, tôi về Vinh. Hồi đó, đường rất xấu (vì trong kháng chiến chống Pháp, đường quốc lộ bị phá hủy triệt để, các "hố ngang hố dọc, chữ i, chữ tờ" mới được lấp lại), lại còn quá nhiều phà lớn, phà nhỏ nên đi từ Hà Nội vào Vinh mất trọn một ngày ôtô xóc kinh người. Tuy vậy, tôi rất vui và cảm thấy thú vị với cảnh "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh - Non xanh nước biếc như tranh họa đồ". Tôi vốn có "Bệnh xê dịch" (chữ của Nguyễn Tuân) cho nên dù nghề dạy học là nghề tĩnh tại, lại thêm thời gian đó giao thông còn khó khăn và lạc hậu mà trong những năm trước ở Hà Nội tôi cũng đã đi thăm được hầu khắp các địa danh ở Đông Bắc bộ (Hạ Long, Trà Cổ, Hòn Gai, Cẩm phả…), Tây Bắc (Nà Sản, Sơn La, Điện Biên Phủ…), Việt Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng…), Cực Bắc (Đồng Đăng, Lạng Sơn, Hữu nghị quan…). Tuy thế, về phía Nam tôi chỉ mới đi thăm được các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và chưa vượt quá Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Cho nên lần này ngoài cái thú khám phá miền đất mới của người du lịch còn được kích thích bởi ý nghĩa "Khai phá" một sự nghiệp mới mà các cấp lãnh đạo đã giao cho chúng tôi, cho nên tôi ra đi với sự hăm hở và hi vọng "Tất cả còn ở phía trước", đúng là "lòng phơi phới dậy tương lai" (Tố Hữu).
            Vì Trường mới mở nên tối đến Vinh với chỉ lời dặn "tìm đến nhà Dòng". Đến nới, cảm giác đầu tiên là thích thú. Tháng 10, mùa mưa bão đã qua, mùa đông chưa tới, ban ngày nắng vàng như mật ong, buổi tối se se lạnh lúc bình minh. Mọi thứ đều rẻ và rất sẵn: Cam xã Đoài ngọt lịm chỉ 5-6 xu/1 quả, hồng trứng, hồng ngâm loại to (như hồng Đà Lạt bây giờ) cũng chỉ 5-6 xu/1 quả, trứng gà 3 xu/1 quả, trứng vịt lộn 7 xu/1 quả, phở 2 hào/1 bát… Trong khi đó lương tháng của tôi (cũng như anh Cương, anh Luyện…) là 74 đồng (1 đồng = 10 hào = 100 xu). Gạo chỉ 4 hào/1kg, trong mậu dịch cũng thế mà ở ngoài cũng thế, gạo ngoài lại còn ngon hơn. Còn nhà ở thì rất tuyệt: tôi được phân một phòng trên đầu hồi gác 2 có ba mặt cửa trông xuống xóm dân cư (trong khi ở cầu dấy tôi chỉ được 1 phòng 6m2 nhà tranh vách trát). Buổi chính ăn tại nhà ăn cán bộ, chỉ có 3 hào/1 bữa nhưng thật ngon. Bữa sáng chỉ 5 xu hay 1 hào xôi là thoải mái. Có một chuyện vui vui: Anh Chù là người rất nguyên tắc, ngay cả trong sinh hoạt riêng, buổi sáng mùa hè thì đúng 5 giờ 30, mùa đông thì 6 giờ, anh cầm bát và 1 hào lẻ ra mua xôi, bà hàng xôi trước cổng cứ thế xới không phải gói, không phải trả lại tiền lẻ, khi ngẩng lên thì anh đã quay lưng vào rồi, vì thế chúng tôi mới nói đùa là "anh mua xôi của cùng một người suốt 2 năm trời mà bà hàng xôi chưa bao giờ thấy mặt". Về công việc, tuy rằng đối với thầy giáo thì không phải làm theo giờ chính quyền, song thực tế chúng tôi đều làm việc cả 3 buổi: Buổi sáng và chiều nếu không lên lớp dạy thì đọc sách, sinh hoạt chuyên môn tại phòng làm việc (mỗi phòng 2 người), buổi tối đọc sách, đọc truyện tại phòng ở (mỗi người một phòng). Cuối buổi chiều mọi người đều ra chơi thể thao, chủ yếu là bóng chuyền. Ngoài việc chuẩn bị bài giảng, chúng tôi ra sức học. Lúc đầu mỗi môn mới chỉ có 1 người nên tự học, tự đọc, chẳng biết hỏi ai, trao đổi với ai. Từ năm thứ 2 và nhất là từ năm thứ 3 trở đi, sau khi số sinh viên tốt nghiệp khóa 1 được giữ lại trường khá đông, đã hình thành các hướng chuyên môn và chương trình bồi dưỡng. Khi đó thì hoặc chia nhau thuyết trình 1 cuốn sách, hoặc 1 cán bộ cũ hơn đọc và thuyết trình cho các cán bộ mới. Rất nhiều môn trong chương trình bồi dưỡng cán bộ hồi đó là những chuyên đề, thậm chí là giáo trình cho các năm cuối của hệ 4 năm hoặc trong chương trình cao học sau này. Cuộc sống lúc ấy thật ổn định và thích thú: Chẳng phải lo làm giàu, đồng lương đủ sống, chỉ phải lo học thêm, lo phấn đấu, lo làm việc cho tốt. Về sinh viên thì cũng thật đặc biệt: trong số 72 sinh viên Toán khóa đầu, có trên một chục anh là quân đội cử đi học (hình như đến khóa 2 mới có 1 anh thiếu úy) và cũng khoảng ngần ấy anh chị là giáo viên cấp 2 được cử đi học. Cho nên "trò già hơn thầy" là chuyện thường. Các anh cán bộ, bộ đội học hành rất chăm chỉ, nghiêm túc và rất gương mẫu trong sinh hoạt (có một số anh có lẽ hơi gia trưởng một chút). Tuy có những anh sinh viên nhiều hơn chúng tôi 4-5 tuổi song các anh xử sự rất đúng mực, lễ phép, thực lòng tôn trọng và biết ơn thầy giáo. Chúng tôi cũng tận tụy giảng dạy, phụ đạo vì các anh không có điều kiện học liên tục nên kiến thức bị hổng nhiều. Các buổi tối tôi đều sang ký túc xá sinh viên (nhà Dòng Nữ - nay là trụ sở Công đoàn Tỉnh), nhất là những buổi mà hôm sau có giờ Đại số, để chỉ dẫn, giải đáp thắc mắc cho từng nhóm, từng người. Có lẽ kỷ niệm sâu sắc nhất thời kỳ đầu ấy là "tình người", đó là quan hệ thầy - trò, quan hệ giữa thầy - thầy, quan hệ giữa CBGD và nhân viên hành chính, phục vụ, quan hệ giữa tập thể và lãnh đạo… tất cả đều đẹp, trong sáng, "mình vì mọi người". Một phần do truyền thống Nghệ - Tĩnh, một phần do cơ cấu đội ngũ sinh viên và cán bộ, một phần do không khí chính trị thời đó. Hồi bấy giờ, đang trong cao trào kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng (6/1/1930 - 6/1/1960, sau này mới đổi lại 3/2), cả trường, cả thành phố sôi sục một không khí phấn đấu: mỗi người đều nghĩ xem mình có thể làm tốt hơn được việc gì, phải sống thế nào để xứng đáng. Cả thầy và trò đều tham gia mọi hoạt động xã hội sôi nổi, bình đẳng với tư cách là công dân, đoàn viên, đảng viên, không cách biệt, không lên gân, không cao đạo…, cùng đi biểu tình, cùng đi cổ động, cùng bán sách báo ngoài chợ Vinh, cùng mang kính hiển vi đi soi trứng giun sán trong nước bẩn trước công chúng để phổ biến khoa học. Ngay cả thầy Hiệu trưởng Nguyễn Thúc Hào cũng có hôm ra làm bảo vệ. Suốt cả hai năm học của khóa 1, tôi được phân công làm chủ nhiệm lớp. Bản thân tôi quan tâm đến lớp còn nhiều hơn đến gia đình, và ngược lại anh em sinh viên đối với tôi cũng thật thân thiết, tin cậy - nhất là các sinh viên mà học sinh phổ thông lên. Dù trong lớp, trong tổ có nhiều bạn học đàn em nhưng họ vẫn tìm thấy ở các thầy trẻ những điều sâu sắc, hấp dẫn và mấy chục năm sau gặp lại nhiều anh vẫn nhắc lại những kỷ niệm nho nhỏ mà phải có tình cảm sâu đậm đến mức nào mới không bị chôn vùi trong lớp bụi thời gian. Học kỳ 2 của năm đầu tôi ra Hà Nội để đọc sách (chính là lúc tôi cùng anh Vũ Tuấn soạn cuốn Bài tập Đại số cao cấp). Anh Trần Đức Mai (sau này là Giám đốc Sở Giáo dục Nghệ Tĩnh), lúc đó là lớp trưởng, hàng tháng vẫn viết thư báo cáo tình hình lớp với tôi và kể nhiều chuyện trong lớp rất cần thiết. Tình cờ vừa rồi tôi lục được trong chồng sách cũ một trong những bức thư đó. Thật cảm động và ngạc nhiên, mà chắc anh Mai cũng không ngờ rằng "thuở hàn vi" mình đẹp đến thế. Các sinh viên cũ khóa đầu sau khi ra trường vẫn thư từ đều đặn với tôi, có người kéo dài đến tận 10 năm, khi chiến tranh chống Mỹ ác liệt, liên lạc rất khó khăn. Rất tiếc là lúc bom Mỹ ném trúng nhà D, khu nhà tầng của trường (phòng làm việc của tổ Đại số lại ở góc nhô của tầng 4 ngôi nhà đó), tất cả thư từ của tôi bị bung ra gió của máy bay, của bom đã thổi dạt đi cả một vùng, chẳng thể nào thu lại được, song những tình cảm, những kỷ niệm đẹp thì chẳng có bom đạn nào xóa đi được.
            Tôi định viết nhiều nữa, vì còn rất nhiều kỷ niệm, nhiều chuyện vui vui (không phải để mà cười), nhưng như người ta thường nói, nếu "trời cho để sống mà minh mẫn" thì dịp kỷ niệm 50 năm, 55 năm, tôi sẽ kể tiếp, viết tiếp, vì những chuyện cũ tuy đã là quá khứ song không phải chỉ là những kỷ niệm cá nhân mà cũng nhằm nhắn nhủ các bạn trẻ với chúng ta một điều gì đó.
 
 
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VINH
NHỮNG NGÀY GIAN KHỔ VÀ TRƯỞNG THÀNH
 
Nguyễn Đăng Mạnh - nguyên CBGD khoa Văn
 
            Tôi công tác ở Trường ĐHSP Vinh từ năm 1960, tới cuối năm 1968 thì có quyết định chuyển ra Hà Nội. Đây là những năm tháng gian khổ nhất trong cuộc đời dạy học của tôi. Vì từ năm 1964, thành phố Vinh là một trong những trọng điểm oanh tạc của máy bay Mỹ khi chúng bắn phá miền Bắc.
            Nhưng thành phố Vinh, ngoài giặc Mỹ còn có gió Lào và giặc lửa.
            Những người sống ở Vinh những năm 1960 của thế kỷ trước quên được những trận hỏa hoạn khủng khiếp từng đốt trụi một lèo đến gần một nửa thành phố - hồi ấy còn nhiều nhà tranh, nhà lá. Gió lào quạt lửa lan nhanh đến mức chó, mèo, lợn, gà chạy không kịp cũng bị đốt cháy thui. Người ta đứng lố nhố trên các nóc nhà dội nước đẫm các mái lá và cầm sào sẵn sàng dập tắt những tàn lửa bay tới.
            Hồi ấy, thành phố Vinh có lệnh cấm lửa từ 9 - 10 giờ sáng, nghĩa là không được đun nấu từ đó đến chiều muộn. Nhiều nhà sợ đến nỗi phải đào hầm, đào hố để phòng lửa lan đến mà không kịp chạy thì quăng đồ đạc, hòm xiểng xuống đấy, vì để trên mặt đất có thể cháy vèo hết… Những ngày hè, không sợ gì bằng tiếng xe kút kít rầm rầm, rên xiết trong gió Lào. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu đã đưa âm thanh này vào thiên truyện "Khách ở quê ra" của mình để tạo nên cái không khí oi bức, nặng nề, trùm lên cuộc sống gian khổ và quyết liệt của Lao Khúng đất Nghệ An… Giặc Mỹ đánh phá thành phố Vinh, Trường Đại học sư phạm phải sơ tán nhiều nơi. Riêng khoa Văn đã phải chuyển qua Nghi Lộc, Thanh Chương, rồi chạy tuốt ra Thanh Hóa, lúc ở Hà Trung, lúc ở Vĩnh Lộc, lúc lên tận Thạch Thành. Chính từ huyện miền núi này, tôi nhận được quyết định chuyển công tác ra Đại học sư phạm Hà nội.
            Nói đến Thạch Thành là nói đến chuyện ăn ốc sên. Ôi! Con ốc sên lúc đầu trông dễ sợ, nó có hai cái vòi trông như một cặp sừng, mình đầy nhớt rửa mãi không hết được. Thế mà rồi ăn nhiều cũng quen đi, ngon đáo để. Có ái đó phổ biến: ba con ốc sên có lượng pờ-rô-tit bằng một quả trứng vịt, vì ốc sên sinh sản rất nhanh ở những rừng chuối, buổi tối có thể đi bắt về hàng rổ. Nguyễn Duy Bình lại phát hiện ra ốc sên không cần rửa kỹ, vì cứ đun mãi lên nó tự  hủy thành nước lã, chẳng có mùi vị gì cả.
            Hồi ấy sống gian khổ nhưng vui. Vui nên nghĩ ra nhiều trò đùa rất trẻ con và cũng vô nghĩa. Hình như nghĩ mãi những điều có nghĩa cũng mệt, bèn bịa ra những trò đùa vô nghĩa lý để giải tỏa. Như Hoàng Ngọc Hiến nghĩ ra trò phân chia cán bộ khoa làm hai loại ăn trộm và ăn cướp theo tướng mạo vì có vẻ ngông nghênh, hung hổ hay lầm lũi, lùi xùi. Hoặc Nguyên Gia Phương nghĩ ra trò lừa anh em bằng nói dối, mặt cứ tình bơ như không:
            - Này, cậu có thư ở văn phòng, đến mà lấy.
            - Này, cậu vừa mới mua ủng phải không, liệu mà ra công an đăng ký ngay vì ủng thuộc lại hàng quân sự quản lý.
            Thời gian mới chuyển đến nơi sơ tán, bếp ăn tập thể chưa kịp phục vụ, anh em phải tổ chức thành những nhóm lĩnh gạo về nấu ăn lấy. Tôi, Hoàng Ngọc Hiến và Trần Duy Châu kết thành một nhóm. Trần Duy Châu, người Huế giỏi nấu ăn, phụ trách làm bếp. Tôi làm tiếp phẩm, chuyên đi chợ. Hoàng Ngọc Hiến không biết làm gì, phải xách nước và rửa bát. Người nào việc nấy, không ai lấn vào việc của ai, ăn xong vứt bát đũa đấy, Hoàng Ngọc Hiến phải đi rửa. Anh chàng vừa phàn nàn, gọi rửa bát là một thứ lao động "thô bỉ"…
            Bây giờ nghĩ lại những năm tháng gian khổ ấy lại cảm thấy tự hào. Vì chính trong thời gian ấy, tôi đã trưởng thành vượt bậc về mặt chuyên môn. Không bận bịu gì việc gia đình vợ con, giờ dạy không nhiều. Thư viện thì chất đầy nhà dân, cứ thế mà đọc, chẳng phải đi đâu. Đọc được gì hay thì trao đổi với nhau. Tôi cùng với Hoàng Ngọc Hiến ở nhà một ông người Mường gọi là Cò Lửa. Vốn là thầy cúng nên ông thuộc loại người có chữ trong làng. Ông hay xem tướng rồi phán: Thầy này tướng vất vả, thầy nọ tướng văn, thầy kia tướng võ… Không hiểu sao ông lại cho tôi tướng võ. Hoàng Ngọc Hiến rất khoái học chữ lượm được trong đời sống. Anh thích những chữ mới lạ và gây ấn tượng mạnh. Tôi thấy anh rất sướng khi học được ông Cò Lửa hai chữ "bõ hờn" và dùng luôn vào bài viết của mình.
            Chúng tôi đọc sách và viết bài đăng báo. Hồi ấy, Hoàng Ngọc Hiến viết bài Triết lý Truyện Kiều, còn tôi viết bài Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút ký chống Mỹ. Vừa viết, chúng tôi vừa trao đổi với nhau, góp ý cho nhau ý này, ý khác, chữ này, chữ nọ.
            Ở Trường ĐHSP Vinh, tôi được phân công dạy Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Dạy mảng này ở trong Vinh chỉ có mình tôi. Một mình dạy đủ các bài, lại thêm thơ Xô viết Nghệ Tĩnh nữa vì đấy là niềm tự hào riêng của địa phương. Đã thế tôi lại say Nguyễn Tuân và Vũ Trọng Phụng - là những đối tượng được xem là phức tạp, tiêu cực, hồi ấy không có trong chương trình phổ thông cũng như đại học.
            Vì thế tôi phải ra Hà Nội luôn để đọc sách và soạn bài. Gia đình ở thận Thái Nguyên nên ra Hà nội tôi vẫn sống độc thân, ngày ngày ăn cơm bụi và đọc sách ở Thư viện quốc gia. Luôn luôn ở thư viện nên quen hết, thường ăn cơm trưa với cán bộ thư viện và có báo động thì cũng chạy xuống hầm với họ. Hôm nào không đi thư viện thì đến gặp các nhà văn tiền chiến và các bậc bô lão trong nghề: Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Bùi Hiển, Hồ Dzếch, Thanh Tịnh, Nguyễn Hồng, Tô Hoài, Như Phong, Xích Điểu, Tế Hanh, Bùi Huy Phồn, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Lương Ngọc, Hoàng Xuân Nhị, Hoàng Tuệ… cứ cái xe đạp cà khổ, đầu đội mũ lá, chân đi dép lốp xông thẳng đến nhà người ta chẳng cần ai giới thiệu cả. Chắc hẳn có vị vừa khinh bỉ vừa khó chịu lắm. Mặc, vì nghĩ họ khinh mình thì cũng phải thôi: học hành chẳng ra sao, nam quốc nam nhân dạy lẫn nhau, chẳng được đi Tây đi Tàu bao giờ, cũng không thạc sĩ, tiến sĩ gì cả, lại dạy ở một thứ đại học tỉnh lẻ… Vả lại, họ khinh mình thì mình vẫn thế thôi, có mất cái gì đâu mà chỉ có lợi, may ra nhặt nhạnh được ở họ điều gì thì cũng chỉ có ích cho vốn hiểu biết và cách suy nghĩ của mình mà thôi.
            Đấy, những năm tháng gian khổ ở Đại học Sư phạm Vinh, tôi đã lớn rất nhanh là nhờ thế.
            Tất nhiên sau này chuyển ra công tác ở Hà Nội, tôi càng có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển khả năng của mình.
            Nhưng tám năm ở Vinh đã tạo ra cho tôi một cái đà khởi đầu rất quan trọng. Mới bắt đầu nghiên cứu, giảng dạy ở đại học đã được ở ngay nơi thuận lợi, nếu không, chắc gì tôi có được cái đà ấy.
 
 
TRƯỜNG VINH, KHOA TOÁN VÀ TÔI
 
PGS.TS. Văn Như Cương
 
            Là một người dân xứ Nghệ mà mãi tới năm 22 tuổi tôi mới lần đầu tiên đặt chân lên đất Thành Vinh. Thuở nhỏ, tôi học cấp 1 ở trường Làng, cấp 2 ở trường Huyện và cấp 3 ở trường Tỉnh là trường Huỳnh Thúc Kháng, lúc bấy giời đặt tại Bạch Ngọc -  huyện Đô Lương. Đường từ quê tôi - huyện Quỳnh Lưu, đến Bạch Ngọc chừng 60 km, không phải đi qua Vinh. Năm 1954, hòa bình lập lại, tôi đi thẳng từ Bạch Ngọc ra Hà Nội để thi vào Trường Đại học sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, tôi được giữ lại Trường giảng dạy khoa Toán. Thế là cho đến lúc ấy tôi vẫn chưa biết Vinh là gì!
            Năm 1959 có quyết định thành lập Phân hiệu ĐHSP Vinh với hai khoa Văn và Toán, sau đổi tên thành Trường ĐHSP Vinh. Đây là trường đại học đầu tiên không đặt tại Thủ đô Hà Nội. Thầy Nguyễn Thúc Hào được cử làm Hiệu trưởng, anh Nguyễn Chí Linh làm Hiệu phó kiêm Bí thư Đảng ủy, anh Nguyễn Văn Chù (đã mất) làm chủ nhiệm khoa Toán, và anh Lê Hoài Nam là chủ nghiệm khoa Văn.
            Khoa Toán Trường ĐHSP Hà Nội cử thêm một số cán bộ vào dạy ở Phân hiệu ĐHSP Vinh, lúc bấy giờ Trường ĐHSP Hà Nội chỉ có 2 người quê ở Nghệ An và Hà Tĩnh, đó là tôi và anh Phan Đình Diệu. Có lẽ vì tôi là đoàn viên Đoàn thanh niên Lao động, còn Phan Đình Diệu thì không, nên tôi được chọn vào Vinh.
            Vào một ngày Thu năm 1959, chiếc xe ôtô đưa tôi đi qua những phố xá san sát nhà tranh vách nứa của Thành Vinh, để cuối cùng xe chui vào một khu vực nhà xây mái ngói gọi là khu nhà Dòng Nam. Nơi đây là chỗ ăn ở và làm việc của cán bộ và thầy giáo. Sát ngay gần đấy là khu nhà Dòng Nữ, sẽ lấy làm khu Ký túc xá cho sinh viên.
            Và thế là bắt đầu quảng đời 15 năm trai trẻ của tôi gắn bó với mái trường non trẻ, gắn bó với khoa Toán mà trong học kỳ đầu tiên vẻn vẹn chỉ có 3 thầy giáo, với biết bao kỷ niệm không thể nào quên.
            Nơi đây, tôi đã lao động, làm việc, học tập và nghiên cứu một cách hang say và quên mình. Là Tổ trưởng bộ môn Hình học trong nhiều năm, tôi đã cùng toàn tổ đoàn kết phấn đấu liên tục và đạt được danh hiệu là Tổ lao động XHCN…
            Nơi đây, tôi đã cưới vợ là một nữ sinh tốt nghiệp khoa Toán, rồi sinh đứa con gái đầu long đặt tên là Na để nhớ về Nghệ An - quê hương tôi.
            Nơi đây, tôi đã cùng Trường di chuyển địa điểm nhiều nơi để tránh những cuộc tập kích đường không của giặc Mỹ: nào là sơ tán về Nghi Lộc, rồi hành quân ra Hà Trung - Thanh Hóa, lên đến tận đất Thạch Thành, quay về Quỳnh Lưu nhưng không yên vì gần biển nên lại chuyển về Yên Thành, cuối cùng là quay về Thành Vinh, tạm đặt Trường trên một bãi ngập bước chân đi.
            Nơi đây, tôi đã nhiều lần đưa tiễn bạn bè và học trò lên đường đánh giặc cứu nước, một số trong đó đã ngã xuống không về.
            Nơi đây, tôi đã cùng cán bộ khoa Toán đào tạo khá nhiều người làm Toán và dạy Toán hiện đang có mặt khắp trên đất nước.
            Và cuối cùng, cũng từ nơi đây, sau 15 năm gắn bó, tôi đã từ giã khoa Toán, Trường Vinh để ra Hà Nội làm việc.
            Thấm thoắt thế mà đã 40 năm. Tuy xa mái Trường thân thuộc, xa khoa Toán gắn bó nhiều năm, nhưng tôi vẫn luôn luôn dõi theo những bước trưởng thành của ngôi trường đại học trên đất quê hương. Mỗi lần có dịp về thăm Trường, ngoài cái cảm giác ấm áp như được trở về với những người ruột thịt, là niềm vui lớn vì những đổi hay, những thành công mới của Trường…
            Vào tuổi 55, Trường Đại học Vinh đã trở thành một trong những cơ sở lớn trong việc đào tạo giáo viên. Trường đã đáp ứng được những yêu cầu cao về số lượng và chất lượng đào tạo.
            Không phải chỉ mình tôi, nhiều cán bộ trong khoa Toán do tuổi tác phải về hưu, hoặc do hoàn cảnh phải chuyển đi trường khác. Tuy nhiên, không phải vì thế mà khoa Toán yếu đi. Trái lại một lực lượng trẻ thay thế đã làm cho Khoa càng ngày càng mạnh. Một trong những điểm mạnh của nó là việc bồi dưỡng chuyên môn cho các cán bộ được chú ý và đạt được nhiều kết quả.
            Nhân dịp kỷ niệm 55 năm thành lập Trường, là một thành viên đầu tiên của Trường, tôi xin chúc Trường ta và khoa Toán ngày càng lớn mạnh, đạt được nhiều thành tích cao về mọi mặt.
 
 
NHỚ LẠI NHỮNG NGÀY HỌC TẬP
VÀ CÔNG TÁC Ở KHOA VĂN - TRƯỜNG ĐHSP VINH
 
Phan Thiều
 
            Sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi, để xây dựng lực lượng tiến lên chính quy, hiện đại, quân đội ta chủ trương tổ chức cho cán bộ, chiến sỹ nâng cao trình độ học vấn trang bị cho họ những kiến thức văn hóa phổ thông làm cơ sở để tiếp cận tri thức khoa học, kỹ thuật mà ngành quân sự đòi hỏi. Để mở các lớp bổ túc văn hóa từ đại học trở lên, Tổng cục Chính trị tuyển chọn một số chiến sỹ đã học hết trung học về, cho ôn tập chương trình cấp 3 một thời gian rồi thi để gửi vào các trường ĐHSP, để chuẩn bị sau này về lại quân đội, làm giáo viên tổ chức hoạt động bổ túc văn hóa nói trên. Tôi là một trong những người được tuyển chọn lúc ấy. Sau khi trúng tuyển (1960), tôi được xếp về học khóa 2 khoa Văn - Sử, Trường ĐHSP Vinh, vừa mới thành lập năm 1959 (hồi ấy Khoa dạy 2 môn, mỗi khóa 2 năm).
            Được ngồi trong giảng đường đại học, lúc bấy giờ là một vinh dự to lớn, vượt quá ước mơ của mình. Hồi trước cách mạng, cứ nghĩ đến về sau lớn lên, mình sẽ làm nghề gì, tôi chỉ dám mong về sau sẽ học lấy cái bằng đíp-lôm (tương đương THCS ngày nay) để ra đời sẽ trở thành giáo viên tiểu học là cùng.
            Một vấn đề đặt ra ngay từ đầu là: Vậy thì học đại học là như thế nào? So với tiểu học, trung học, có gì khác không? Qua ý kiến của một số anh lớn tuổi, qua các giáo trình tiếp thu được các thầy trong khoa, các bài báo trên Tạp chí Văn học mà tôi đọc được, dần dần tôi vỡ lẽ ra là ở đại học, cấp học cao hơn, người ta chú trọng đến những phát hiện mới, không cho phép người đọc chỉ lặp lại những kiến thức có sẵn mà yêu cầu sinh viên phát huy đầu óc sáng tạo, tìm ra những kết luận riêng của mình, tức là phải học tập theo kiểu NCKH. Từ đó, sau khi học, tôi vẫn thường xuyên suy nghĩ xem, bên cạnh những điều thầy giảng, có thể nghĩ them được điều gì nữa không? Và tôi rất thích thú theo dõi các bài nghiên cứu trên tạp chí có các ý kiến tranh luận, dò theo những lý lẽ các tác giả bàn bạc, phân tích, phê phán quanh các nhận định khác nhau về cùng những tác phẩm, tác giả văn học như nhau.
            Trong bài kiểm tra phải làm, tôi thường để ý đến những ý kiến riêng, cố gắng phát triển, làm rõ thêm các kết luận được giáo trình của thầy đúc kết. Bài làm của tôi không có gắng trình bày đầy đủ nội dung bài học mà thường nêu lên một vài ý nhỏ thôi, đơn giản thôi, nhưng thể hiện một cánh suy nghĩ riêng của mình, hợp lý, logic. Chính những điểm như thế đã được các thầy như thầy Nguyễn Khắc Phi, thầy Nguyễn Nguyên Trứ tán đồng, biểu dương.
            Để đạt được các điểm cao trong bài làm, tôi còn phải tự mình xem có ưu điểm, nhược điểm gì cần chú ý để tính toán cách làm việc sao cho đạt hiệu quả tối ưu. Chẳng hạn, khi làm bài kiểm tra, tôi nghĩ rất kĩ rồi mới viết mà viết lại không nhanh, nên 1 bài kiểm tra 2 tiết thì chỉ viết được tối đa là 4 trang giấy man. Trong đó, bạn bè có những người như anh Phan Nam Sinh thì viết những 8 trang, 10 trang ngon ơ. Trong tình hình đó, tôi phải nghiên cứu bài của mình sao cho thật cô đọng, "Nói ngắn mà ý phải dài", tránh được cái tội bài viết nội dung quá nghèo nàn. Đến lớp cuối khóa, tôi lại nghĩ mình quen viết rồi phải rèn luyện cho mình năng lực viết dài khi cần thiết. Đến khi làm luận văn tốt nghiệp có thời gian hàng tháng để tìm tòi, suy nghĩ và để viết ra giấy. Tôi lại nảy ra ý nghĩ, nhân đây, một công đôi việc, tôi sẽ cố gắng viết sao để có thể gửi bài của mình đăng tạp chí nữa, "biết đâu đó!"… Muốn đăng tạp chí khi làm khóa luận thì người học có quyền tự chọn, tự đề xuất đề tài mình phải tìm ra một đề tài sẽ đi vào những chỗ chưa mấy ai bàn, mình tránh được nguy cơ lặp lại những điều người khác đã nói. Hồi ấy (1962) nhà thơ Tố Hữu mới cho ra đời tập thơ "Gió lộng", tôi đọc vài ba lần cũng cảm thấy giọng điệu vừa hào sảng, hoành tráng, vừa đầy ắp những cảm thiết tha. Tôi bèn hướng trình bày cho được chủ đề "Sự kết hợp âm hưởng trữ tình với giọng điệu anh hùng ca trong tập thơ Gió lộng". Về sau, tính toán lại sợ phạm vi quá rộng, tôi co lại đề tài khóa luận có phần đơn giản  hơn - thành "Tính chất anh hùng ca trong tập thơ Gió lộng". Bài viết kéo dài được mười lăm trang. Thầy Trần Văn Hối, cho điểm năm (thang điểm theo bậc). Xong rồi, tôi đánh liều chép bài gửi cho Tạp chí Văn học. Cũng to gan thật! Một việc làm hú họa, làm liều thế thôi! Vậy mà, đến khoảng mười hôm sau thầy Lê Bá Hán đi Hà Nội về báo cho tôi biết Ban biên tập tạp chí gọi tôi ra gặp. Và sau khi tôi xem lại bài viết một tí, khóa luận của tôi đã được xuất hiện trên trang Tạp chí của Ngành. Như vậy, những tính toán ban đầu của tôi trong quá trình học tập ở Khoa đã được xác định là đúng đắn…
            Sau khi tốt nghiệp Trường ĐHSP Vinh, tôi được bên Giáo dục chấp nhận lời đề nghị của bên Quân đội cho đội chuyển sang giảng dạy khoa Văn. Lúc ấy, thầy Lê Hoài Nam đang làm chủ nhiệm Khoa, xếp tôi vào tổ Văn học Việt Nam hiện đại. Tôi về nhà thấy cần phải cân nhắc kỹ lưỡng: Vào thời điểm như thế, chọn đi hướng nào có ý nghĩa quyết định đối với cả cuộc đời. Hồi ấy, Khoa chưa có cán bộ Ngôn ngữ học, phải nhờ thấy Vân Lan ở Hà Nội về dạy. Nghe lời anh em và bạn bè dạy ngôn ngữ học ở Đại học Tổng Hợp, tôi xin được làm Ngôn ngữ học, một môn học còn rất mới ở nước ta. Được Khoa chấp nhận, tôi lao vào học tập để phụ trách mảng Ngữ pháp Tiếng Việt ở Khoa. Để chuẩn bị bài giảng, tôi phải thường xuyên đi Hà Nội, xin dự giờ dạy của thầy Nguyễn Tài Cẩn ở Trường ĐH Tổng hợp, theo học kiên trì như một sinh viên thực thụ. Ngoài ra còn bám vào thư viện lớn nhất nước thời bấy giờ (Thư viện khoa học và thư viện Quốc gia Hà Nội) để đọc sách nghiên cứu thêm. Mặt khác, qua con đường tự học, có hoàn thiện thêm chương trình tiếng Nga để đạt tới mới dùng đọc được quyển sách chuyên môn.
            Trong quá trình tự lo cho mình một giáo trình để lên lớp, tôi còn phải nghĩ đến việc NCKH, một hoạt động quan trọng được nhà nước ấn định trong trách nhiệm của người cán bộ giảng dạy đại học.
            Nhân có hôm anh em cán bộ trong khoa nói chuyện với nhau về kết quả học tập của sinh viên, người ta than phiền sinh viên ta viết chữ sai ngữ pháp nhiều quá, có người quay sang tôi hỏi: "các cậu dạy ngữ pháp thế nào mà để cho học trò viết lách tồi như vậy". Như bị chạm tự ái, tôi cãi: "đào tạo viết đúng ngữ pháp là công việc của trường phổ thông. Còn ngữ pháp dạy ở đại học là ngữ pháp lý luận, ngữ pháp khoa học. Sinh viên viết sai ngữ pháp đâu có là trách nhiệm của chúng tôi?".
            Sau nghĩ lại thấy mình chối bỏ trách nhiệm hoàn toàn như thế cũng chưa hẳn là đúng. Phải chăng cách dạy tiếng Việt ở các lớp phổ thông chưa tốt, cần phải nghiên cứu, cải tiến sao cho có hiểu quả tốt hơn? Và đây dứt khoát phải là nhiệm vụ của những người làm ngôn ngữ học chứ không phải của ai khác. Tôi quyết định tới vấn đề "Phương pháp dùng tiếng Việt". Biết chuyện, có những cán bộ trong Khoa, như thầy NTC phản ứng, bảo: "các cậu vớ vẩn quá! Cứ xem trong chương trình chỉ có phương pháp dạy học chứ làm gì có phương pháp dạy học tiếng Việt". Tôi cãi, "hiện nay thì chưa có nhưng rồi sau này sẽ có!" Rồi kiên quyết đi theo hướng mình lựa chọn.
            Từ năm 1970, tôi đã có giáo trình chuyên đề về "Phương pháp dạy học tiếng Việt" giảng cho sinh viên cuối khoá trong Khoa. Từ năm 1972, các bài nghiên cứu của tôi theo hướng đó đã được đăng tải đều đặn trên các tạp chí ngôn ngữ, nghiên cứu giáo dục đại học và THCN…
            Trong hội nghĩ ngôn ngữ học ngành Đại học lần thứ I (Thành phố Hồ Chí Minh 1/1978), báo cáo của tôi về "Phương pháp xây dựng môn phương pháp dạy tiếng Việt" đã được nhiều người chú ý. Ở hội nghị Ngôn ngữ học lần thứ II (Huế, 1979), tôi đã tham luận đề xuất: "trong chương trình khoa Ngữ Văn - Trường Đại học sư phạm cần có bộ môn phương pháp dạy Tiếng Việt".
            Vào ngày 30/2/1982, thông báo về hoạt động Hội đồng Đào tạo và các hội đồng bộ môn đại học sư phạm số 149/ĐTBD của Bộ Đại Học (phần mục lục: ý kiến của hội đồng bộ môn. Ngữ văn về một số vấn đề cải tiến nội dung đào tạo)  đã ghi rõ: ở các trường đại học sư phạm (Khoa Ngữ Văn) cần "bổ sung môn phương pháp dạy Tiếng Việt để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của việc cải cách môn Ngữ Văn ở nhà trường phổ thông trung học". Ngày nay "phương pháp dạy Tiếng Việt" đã trở thành một bộ môn chính thức quan trọng trong chương trình đào tạo của các khoa Ngữ Văn trên cả nước.
Trong cuộc đời công tác của tôi, kể cả những năm học đại học, đã có 23 năm (1960 - 1983) trải qua ở khoa Văn - Trường ĐHSP Vinh. Kiểm tra lại, những gì có thể gọi là sở đắc trong cuộc sống của tôi chủ yếu đạt tới trong sự đào tạo, giao lưu của thầy giáo, bạn bè đông môn, đồng nghiệp ở khoa Ngữ Văn chúng ta. Hôm nay, ở chặng cuối cuộc đời, ngồi ôn lại những dặm đường đã qua, tôi vẫn cảm nhận thấy khoa Ngữ Văn - Trường ĐHSP Vinh, cái nôi đùm bọc, nuôi dưỡng tôi lớn lên trong nghề nghiệp, những ngày ấy có ý nghĩa sâu sắc nhất.
 
 
MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH LÀM THẦY VÀ LÀM THỢ
 
GS.TS. Đào Nam - nguyên CBGD khoa Toán
 
            Tôi được sinh viên gọi bằng thầy chính thức từ những giờ phụ giảng đầu tiên chữa bài tập Hình học sơ cấp, giáo trình do thầy Trương Đức Hinh phụ trách. Đó là những ngày đầu tiên của năm học 1968 - 1969 tại chiến khu Thạch Thành.
            Bắt đầu cuộc đời làm thầy và làm thợ từ đây. Tuổi trẻ bắt đầu từ khoa Toán. Tôi nhen nhóm những ước mơ, những hoài niệm và thậm chí bắt đầu trải nếm những khó khăn vượt bao những âu lo.
            Tôi thầm nghĩ không thể làm thầy mà không làm thợ. Tôi đi theo các thầy tôi: Thầy Trương Đức Hinh, thầy Nguyễn Đình Nhân, thầy Kiều Huy Luân, thầy Nguyễn Văn Bàng… để nghe và học tập các bài giảng quý giá của các thầy.
            Phải học thực sự để làm thầy tốt hơn, tôi triền miên là người thợ theo nghĩa đó. Trong tay tôi vẫn còn những chương giáo trình chép tay về Hình học sơ cấp của thầy Trương Đức Hinh; những cuốn chép tay về phép nghịch đảo, về các phép biến hình trong mặt phẳng, không gian dày hàng trăm trang của thầy Nguyễn Đình Nhân; Bây giờ những giáo trình đó còn nhiều bổ ích cho chúng tôi, cho sinh viên và học sinh chuyên Toán.
            Tôi hi vọng sẽ nhân bản, đóng bằng bìa cứng cẩn thận hơn và trang trọng đặt tại tủ sách của Khoa, xem đó là những tài sản quý báu của các thế hệ thầy giáo đi trước đã dày công tạo dựng nề nếp làm việc khoa học, tinh thần vượt khó và ý thức trách nhiệm đối với sinh viên. Đó là những ấn phẩm viết nên từ những năm tháng chiến tranh khốc liệt tại Thạch Thành - Thanh Hóa, Quỳnh Lưu, Yên Thành - Nghệ An.
            Tôi đang nói về những người thầy gần gũi với chuyên môn, còn biết bao những tình cảm đẹp đẽ đáng trân trọng khác với những người thầy đã dành trọn công sức, tuổi trẻ cho khoa Toán. Có những thầy đã mất, có những thầy đã nghỉ hưu, nhiều thầy đã chuyển công tác về các trường đại học khác.
            Lắng sâu trong tâm hồn của các thế hệ thầy giáo, sinh viên khoa Toán hiện nay về thầy thầy giáo Hiệu trưởng, nhà giáo nhân dân, Giáo sư Nguyễn Thúc Hào về đức độ và phong cách dạy toán. Chúng ta khắc sâu tình cảm đối với những người thầy mẫu mực khoa học đặt nên móng cho sự phát triển của Khoa: Thầy Trần Văn Hạo, thầy Hoàng Kỳ, thầy Đào Văn Phong, thầy Văn Như Cương, thầy Phan Đức Thành, thầy Nguyễn Quang Thi, thầy Trần Đình Viện, thầy Hoàng Trọng Thái, Thầy Nguyễn Quý Di, thầy Nguyễn Văn Ân, thầy Tạ Quang Hải, thầy Nguyễn Thái Hòe…
            Để làm thầy tốt chắc chắn nhiều người trong chúng ta phải làm thợ để đọc, nghiền ngẫm, khai thác những tập sách, giáo trình, phần lớn công sức, trí tuệ của các thầy để lại cho nhiều thế hệ sinh viên và thầy giáo khoa Toán.
            Tôi vừa làm thầy vừa làm thợ trân trọng, trầm ngâm những kiểu tư duy sắc bén, độc đáo trong suy nghĩ, trong giải toán của các em học sinh chuyên Toán, của các sinh viên xuất sắc của những học viên cao học thuộc các chuyên ngành của khoa Toán. Mỗi lần tiếp cận với những cách giải quyết vấn đề hay, độc đáo là mỗi lần bừng cháy trong tâm hồn của người thầy như chúng tôi và chắc chắn thầy rút được nhiều kinh nghiệm quý báu hơn cho những giờ dạy sau.
            Nếu mỗi ngày bỏ quên vài giờ làm thợ, vài giờ thôi thì khó có thể tìm được những điều gì mới cho những giờ dạy lần sau.
            Tìm cái mới cho một giờ dạy đã khó thì liệu suy nghĩ một đề tài khoa học cho luận văn sinh viên, cao học, luận văn nghiên cứu sinh khó hơn biết chừng nào.
            Làm thợ, thực hành cọ xát với những kiến thức mới để đảm đương các trọng trách của khoa Toán mà Ban chủ nhiệm khoa quan tâm hiện nay là yêu cầu thường trực đối với mỗi cán bộ của khoa.
            Tôi đã đi trọn cuộc đời làm thầy và làm thợ nhưng không thể đi hết những lời dạy bảo ân tình của những người thầy mà tôi đã học.
            Tuổi trẻ bắt đầu từ khoa Toán và tuổi già cũng bắt đầu từ khoa Toán. Chúng tôi vẫn tiếp tục làm thợ để cho những bài giảng sâu sắc hơn, những cuống sách, những tập giáo trình đóng góp tích cực hơn cho thế hệ sinh viên khoa Toán hiện nay và tương lai.
 
 
TÂM SỰ NGHỀ GIÁO
 
PGS.TS. Trần Văn Hạo - nguyên CBGD khoa Toán
 
            Năm 1965, tôi chuyển từ Trường ĐHSP Hà Nội về khoa Toán Trường ĐHSP Vinh và giữ chức vụ Phó chủ nhiệm khoa Toán từ 1966 đến 1980.
            Suốt những năm chiến tranh cùng khoa đi sơ tán, từ Nghi Lộc tới Thạch Thành, Nga Sơn, Quỳnh Lưu, Yên Thành, có lẽ ấn tượng sâu đậm nhất đọng lại trong tôi là tình thân mật, gắn bó với thầy và trò trong mọi việc từ xây dựng lán trại, tổ chức đời sống, huấn luyện chiến đấu đến công việc quan trọng nhất là học tập, nghiên cứu. Là tiến sĩ duy nhất của khoa trong một thời gian dài, tôi đã cố gắng xây dựng một không khí say mê học tập, nghiên cứu trong cán bộ và sinh viên, trước hết thông qua các semina về Logic Toán, về Số luận, về Đại số phổ dụng, về Nửa nhóm - ngoại trừ một học kỳ ra Hà Nội làm một semina về mật mã cho cán bộ bảo mật Trung ương và quân đội.
            Những cố gắng liên tục này là nền tảng để sau đó một loạt cán bộ được đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài vào thập niên 70 trường đã có thêm nữa tiến sĩ về làm nòng cốt cho khoa.
            Năm 1980, tôi rời Trường đi làm thực tập sinh ở trường Lômônôxốp Maxcơva. Biết tôi chuyển sang hướng nghiên cứu về tin học lý thuyết (Ôtômát, Ngôn ngữ hình thức, Mã) nên năm 1982, Viện Khoa học Việt Nam đề nghị tôi về nước xây dựng Viện Tin học. Tuy nhiên, trong quyết định của Bộ cho tôi ra Hà Nội thì tôi phải làm một nữa biên chế ở Bộ Giáo dục, còn một nửa ở Viện Khoa học Việt Nam. Trước tình hình chẳng thuộc hoàn toàn nơi nào cả, tôi đã từ chối vào đúng lúc đó lãnh đạo Trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh đang có mặt tại Hà Nội đã mời tôi vào thành phố Hồ Chí Minh tìm hiểu điều kiện làm việc, và thế là tôi đã quyết định chuyển vào khoa Toán, Trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh. Đến 1985, Trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh thành lập Trung tâm Tin học và tôi được cử làm Giám đốc cho đến năm 1998 thì tôi xin thôi, chỉ còn giảng dạy và nghiên cứu. So với Vinh thì thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn, sôi động, có nhiều cơ hội cho những người có tư duy năng động, muốn vươn lên trong cuộc sống, trong việc học tập, nghiên cứu cũng như làm kinh tế. Riêng đối với việc học tập, nghiên cứu, khả năng tiếp cận được với thầy giỏi (cả trong và ngoài nước) có rất nhiều, việc giao lưu dễ dàng, cơ hội vươn lên khá dễ. Tuy nhiên, trong giai đoạn khó khăn về kinh tế của thập niên 80 và đầu thập niên 90 thì xu hướng của giới trẻ năng động là lao vào cải thiện kinh tế gia đình (và thực tế nhiều người đã thành công) nên việc học tập, nghiên cứu bị gác sang một bên. Số người đăng ký làm nghiên cứu sinh rất ít, dù có sự hỗ trợ một phần kinh phí. Chỉ sau khi tình hình kinh tế tạm ổn, vài năm gần đây mới bắt đầu khơi dậy phong trào nghiên cứu, riêng khoa Toán đã có 2 tiến sĩ và gần đây có 3 tiến sĩ đã bảo vệ thành công.
            Số giáo viên và sinh viên tốt nghiệp Trường ĐHSP Vinh hiện đang làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh tương đối thành đạt. Riêng cựu giáo viên và cựu học sinh, sinh viên khoa toán hiện có 2 nhóm sinh hoạt: một nhóm là cựu học sinh chuyên Toán 3 khoá đầu, hàng năm họp mặt vào Chủ nhật tuần đầu năm Dương lịch cùng với các thầy giáo chuyên Toán cũ, mỗi năm họp tại nhà một bạn; và một nhóm là các cựu sinh viên chủ yếu các khoá 14 đến 21, hiện đã mở rộng ra và nhập vào hội đồng môn Trường ĐHSP Vinh tại thành phố Hồ Chí Minh. Hội đồng môn này ngoài ban liên lạc chung, có cử đại diện theo từng khoa: khoa Toán, có thầy giáo Trần Văn Hạo, sinh viên có Trần Thị Nhuận (khoá 16) hiện là giáo viên Trường CĐSP thành phố Hồ Chí Minh.
            Từ năm 1988 đến nay, tôi được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch kiêm tổng thư ký Hội Toán học thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu cũng làm công tác Hội Đoàn, tập hợp và giúp đỡ anh em ngành Toán trong công việc giảng dạy và nghiên cứu.
            Hơn 45 năm làm nghề dạy học, đối với tôi hình như lúc nào cũng rất mới mẻ. Trước mỗi khoá học mới, dù bây giờ đầu đã bạc, tôi vẫn có những cảm giác hồi hộp, chờ đợi những điều mới mẻ từ trong lớp học trò mới, suy nghĩ về cách dạy về những đối tượng này so với những đối tượng khác… có nghĩa là nghề dạy học đối với tôi hấp dẫn ở chỗ đó là một công việc không bao giờ lặp lại, không bao giờ nhàm chán, luôn có những thách thức, dù cho đối tượng là các lớp cao học, các lớp sinh viên hay là các lớp luyện thi. Tôi luôn cùng với họ khám phá, trước hết là khám phá những khả năng và thói quen tư duy của học sinh, cách giải quyết đề họ nắm bắt kiến thức một cách tốt nhất và cách hướng họ vào những suy nghĩ, tìm tòi để đạt hiệu quả cao trong học tập. Đối với tôi, khi cảm thấy công việc giảng dạy cho một đối tượng nào đó trở nên nặng nề, mất hứng thú thì tốt nhất là nên chấm dứt - đây là quyết định của tôi khi chấm dứt các lớp luyện thi năm 1995.
            Song song với việc giảng dạy, một công việc cũng gắn bó với nghề dạy học đối với tôi, đó là viết sách: Viết sách tham khảo, sách giáo khoa cho các bậc đại học và phổ thông. Từ cuốn sách giáo khoa đầu tiên ra đời năm 1971 (cuốn Đại số tuyến tính) cho đến bộ sách Toán cho bậc phổ thông trung học hiện nay và cả trong giai đoạn tới, tôi đã gắn những trăn trở trong quá trình dạy học của mình vào nội dung của sách giáo khoa (tất nhiên, lực bất tòng tâm, không phải lúc nào cũng như ý muốn), nhưng bao giờ tôi cũng coi đó là những gửi gắm của mình cho thế hệ tương lai.
            Một mảng công việc cuối cùng của tôi gắn với nghề dạy học đó là làm các phần mềm dạy học. Từ khi tiếp cận với máy tính, nhất là từ khi làm chuyên viên cho UNESCO để thẩm định các đề tài về tin học trong giáo dục ở một số nước, tôi đã mong muốn sử dụng công cụ rất hiệu quả này hỗ trợ nghề dạy học ở nước ta. Tất nhiên, để làm việc này đòi hỏi phải có nhiều người tham gia, cho nên tôi đã tổ chức các nhóm đề tài hướng dẫn học viên cao học đi vào nghiên cứu các phần mềm dạy học và một số phần mềm dưới dạng nghiên cứu đã ra đời. Tuy nhiên, từ thành quả nghiên cứu đến những thương phẩm có mặt trên thị trường để phổ biến rộng rãi là một bước rất dài, nhiều khi vượt quá tầm tay của nhà nghiên cứu. Chính vì vậy, năm 1999 này, tôi đã nhận lời mời của một Công ty sản xuất phần mềm cộng tác với họ để ra các đĩa CD-Rom hoàn chỉnh dành cho giáo dục, trước mắt là cho các lớp bậc phổ thông cơ sở.
            Trong hơn 45 năm dạy học, mặc dù ở khoa Toán - Tin chỉ có 15 năm, nhưng đấy là những năm của tuổi trẻ, đầy tâm huyết, đầy thử thách, đã tạo nên một dấu ấn đậm nét nhất trong cuộc đời của tôi.
            Khoa Toán - Tin ở Vinh, Thanh Hóa hay Quỳnh Lưu vẫn đậm chất Nghệ - Tĩnh, giản dị trung thực mà hơi gàn, nếu đã chấp nhận thì làm việc hết mình, tuy nhiên, do hoàn cảnh nên tính năng động, cởi mở cũng như khả năng hợp tác hòa đồng còn hạn chế.
            Thế hệ anh chị em hiện hay ở Khoa sẽ là lực lượng quyết định cho sự phát triển trong thế kỷ 21, các bạn sẽ thành công nếu kết hợp được sự phát triển trong Khoa với việc liên hệ với bên ngoài - bao gồm các trung tâm lớn trong nước cũng như ngoài nước. Trong thời đại hiện nay không giao lưu thì khó phát triển. Cố gắng để sử dụng Internet, ít nhất cũng dùng email liện hệ thường xuyên với bên ngoài. Trao đổi tài liệu, công trình, trao đổi cán bộ qua các hội thảo, semina, xây dựng những nhóm cộng tác nòng cốt ở một số trung tâm ngoài Trường nhằm thường xuyên trao đổi với Khoa về các thông tin cần thiết, kể cả định hướng nghiên cứu và phát triển, gắn kết Toán - Tin học - giáo dục để tập trung nỗ lự nghiên cứu vào một số lượng vì những nghiên cứu riêng lẻ thường khó phát triển lâu dài.
 
 
LƯU LUYẾN THUỞ BAN ĐẦU
 
Thanh Nhàn (ghi theo lời kể của thầy Nguyễn Quý Dy -
nguyên CBGD khoa Toán)
 
            Tuy còn gọi là phân hiệu, nhưng Trường ĐHSP Vinh ngay từ buổi sơ khai đã là một trường đại học độc lập, có vị trí riêng hấp dẫn của nó. Tôi là sinh viên khóa 1, thuộc Ban Toán - Lý do thầy Nguyễn Văn Chù làm chủ nhiệm, thời gian học trong 2 năm thì một năm ở khu trường Dòng (Bệnh viện Thành phố Vinh hiện nay), năm còn lại chuyển sang khu nhà cấp 4 mới xây (Khu khoa Sinh cũ, nay thuộc phường Hưng Bình).
            Ban Toán - Lý khóa 1 có 77 sinh viên, số cán bộ giảng dạy ngoài GS. Nguyễn Thúc Hào làm Hiệu trưởng, thầy Chù chủ nhiệm khoa còn có các thầy Văn Như Cương, Hoàng Kỳ, Đào Luyện, Nguyễn Hữu Phúc (dạy tiếng Nga), Nguyễn Văn Bàng (dạy Giáo học pháp, về ban vào cuối năm thứ nhất). Hồi bấy giờ, thầy trò đều ở ký túc xá, các thầy hầu hết đều còn trẻ, sống độc thân, nên quan hệ giữa người dạy và người học rất thân gần, hầu như không giữ kẽ điều gì mặc dầu thầy trò luôn có ý thức tôn trọng nhau. Các thầy chăm chỉ đọc, mượn tài liệu, tự học ngoại ngữ để dịch sách, soạn giáo án, giáo trình. Tôi nhớ mãi hình ảnh thầy Chù, ngày nào cũng từ 4 giờ sáng đã dậy thắp đèn ngồi đọc sách. Các thầy Nguyễn Thúc Hào, Văn Như Cương, Hoàng Kỳ giảng dạy nhiệt tình, kiến thức sâu sắc, lại chu đáo với các em. Có thể nói ngay từ đầu năm các thầy giáo Ban Toán - Lý đã có sức hấp dẫn, vẫy gọi chúng tôi theo nghề sư phạm.
            Sinh viên lớp chúng tôi học xem ra cũng "đa dạng", có học sinh phổ thông, có bộ đội phục viên chuyển ngành. Người quê gốc ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, người ngoài Bắc trong Nam, có hết, nhiều lứa tuổi, nhiều giọng nói, sự từng trải va vấp cũng khác nhau nên đâm ra cũng vui. Cái đáng nói là anh em cùng lớp luôn giúp đỡ nhau hết mực, cả trong học tập lẫn trong đời sống riêng tư làm cho chúng tôi cảm thấy ấm cúng như sống trong gia đình thân thích. Gương mẫu nhất, có lẽ là những sinh viên có tuổi đã trải qua quân ngũ. Có ai đó học yếu hơn tôi một chút thì đã có chúng tôi giúp sức. Trái lại, họ cũng nâng đỡ bày vẽ cho chúng tôi trước biết bao cái kém cỏi của đời. Tôi nhớ mãi anh Nguyễn Lê Chúc, người ngoài Bắc xem tôi như em ruột. Biết tôi nhà nghèo, mồ côi nên những khi đói anh ấy mua cho ăn, rét thì lấy áo quần lính cho mặc. Sống gần gũi như vậy nhưng rất nghiêm. Ai thiếu sót điều gì được nhắc nhở ngay. Giờ tự học, chúng tôi kéo nhau lên lớp. Ban đêm học hăng, quá 10 giờ quy định anh em cờ đỏ ghi vào "nhắc nhở". Tinh thần của chúng tôi: học bài nào xào bài ấy, trước khi đi ngủ, còn chất vấn nhau bài vở, những bạn học lực non lớp chủ động phân công người giỏi kèm cặp. Cũng xin nói thêm điều này nữa, thời bấy giờ ai được kết nạp vào Đoàn Thanh niên là cả một sự kiện trong đời!
            Do có thầy tốt, trò chăm ngoan, bộ phận phụ trách hậu cần chăm lo chu đáo nên số sinh viên tốt nghiệp ra trường có thể nói là đáng phấn khởi. Nếu tôi nhớ không sai thì khóa 1 của khoa chỉ có 1 người chưa đậu tốt nghiệp ngay nhưng tất cả đều được "tung cánh muôn phương". Phần lớn được phân công đi dạy ở các tỉnh phía Bắc. Biết sự vất vả, thiếu thốn, nhất là thiếu thốn tình cảm, nhưng tất cả, kể cả những người quê ở Nghệ - Tĩnh đều đã lên đường, trong số đó có nhiều người đã sinh cơ lập nghiệp ở ngoài Bắc. Qua những thông tin mà tôi nhận được thì hầu hết sinh viên khóa 1 chúng tôi đều đã trưởng thành có trường hợp trưởng thành vượt bậc.
            Sẽ thiếu sót nếu tôi không kể đôi lời về một bộ phận sinh viên khóa đầu của Ban Toán - Lý sau khi tốt nghiệp xuất sắc được Trường Vinh giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Đó là các anh: Nguyễn Quốc Thi, Lê Thế Lân, Tạ Quang Hải, Nguyễn Mộng Hy, Trần Đức Mai, Trương Đức Hinh, Nguyễn Đình Nhân, Nguyễn Văn Ân và tôi nữa. Bấy giờ, Bộ Giáo dục yêu cầu Trường Vinh chọn một người đi ra Trường ĐHSP Hà Nội. Khó quá. Vì đơn giản là ai cũng muốn ở lại với khoa, với Trường. Anh Trương Đức Hinh ban đầu bị "điều đi", sau xin ở lại được. Cuối cùng, anh Nguyễn Văn Kiến buộc phải ra Hà Nội, với lý do quê anh ngoài Nam Định, Nam Định thì gần Hà Nội hơn Vinh! Nay anh Kiến vẫn công tác ở khoa Toán, Trường ĐHSP Hà Nội.
            Cả cuộc đời gắn bó với Trường Đại học Vinh, những lúc nhớ lại từ thuở ban đầu, tôi không khỏi có chút tự hào. Có thể khẳng định rằng: 77 sinh viên tốt nghiệp khóa 1 năm ấy đến nay, trừ những ai đã mất, số còn lại tất cả đều là những người cán bộ tốt và đáng tin cậy của nhân dân!
 
 
CÒN MÃI NHỮNG BẢN SÁCH CHÉP TAY
 
Nguyễn Văn Hùng (ghi theo lời kể của NGƯT. Trương Đức Hinh -
nguyên CBGD khoa Toán)
 
            Mấy năm trước khi chiến tranh chống Mỹ cứu nước nổ ra (1964), Ban Toán - Lý (khoa Toán ngày nay) mới thành lập có 4 nhóm: Giải tích, Đại số, Hình học, Phương pháp dạy học toán. Năm 1961, sinh viên khóa đầu tiên tốt nghiệp, tôi được Trường giữ lại và làm một thành viên trong nhóm Hình học gần 10 người do thầy Văn Như Cương làm nhóm trưởng. Nhóm sinh hoạt chuyên môn cũng như đời thường đều rất vui, cởi mở, chan hòa với nhau. Sáng dậy, tập thể dục, ăn sáng qua quýt rồi lên phòng làm việc chung của cả nhóm. Trưa, tối về lại phòng riêng cùng dãy nhà cấp 4. Mỗi người mỗi yêu cầu, mỗi sở thích, ai cũng tự nguyện mày mò cái để học hoặc học hỏi nhau qua các chuyên đề. Có khi mời thầy giáo nơi khác đến thuyết trình, khi thì đọc các tài liệu có sự hướng dẫn của các giáo sư ngoài Hà Nội. Những năm sơ tán đó đây ở 2 tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa, thiếu thốn và vất vả, vậy mà nhóm Hình học chúng tôi vẫn giữ được không khí vui vẻ, cởi mở, tác phong làm việc nhiệt tâm với nghiệp "trồng người" ấy.
            Thầy Trương Đức Hinh tiếp tục kể: Tôi còn nhớ GS. Nguyễn Thúc Hào, nguyên là Phó Giám đốc ĐHSP Hà Nội, được Bộ Giáo dục bổ nhiệm làm Giám đốc Phân hiệu ĐHSP Vinh bấy giờ, cũng thường xuyên sinh hoạt trong nhóm Hình học cùng tôi. Vào những năm 1962, 1963, giáo sư thuyết trình tại nhóm chuyên đề: "Hình học Riman" - một hướng tiếp cận của hình học vi phân. Chuyên đề này thu hút được sự chú ý của nhiều anh chị em trong nhóm, là sự tổng hợp của nhiều nguồn tri thức toán học, trong đó có cuốn sách rất hiếm lúc bấy giờ, cuốn "Hình học Riman và Giải tích Tenxơ" của tác giả Rasépxki. Thầy Võ Tiếp, một thầy giáo và là một đồng nghiệp của chúng tôi đã say sưa đến mức đánh đường ra Hà Nội, mượn cuốn "Hình học Riman và Giải tích Tenxơ", rồi đoạn thì chép nguyên văn, đoạn dịch ra tiếng Việt cái công trình gần 700 trang in, khổ rộng đó. Bản chép tay đầy công phu, nhọc nhằn và vô cùng hào hứng đó, hiển nhiên đã trở thành tài liệu bổ ích chung của cả nhóm.
            Chiến tranh! Sách báo tài liệu đã trở thành tài liệu dùng cho nghiên cứu, giảng dạy càng khan hiếm. Theo hướng tiếp cận Hình học phi Ơcơlít, có một cuốn sách rất đáng được chú ý, cuốn "Các không gian phi Ơcơlít" của tác giả Roodenfeld. Chuyên đề này, GS. Nguyễn Cảnh Toàn đã giảng tại Hà Nội, một số anh em của tổ chuyên môn chúng tôi đã được nghe, về trò chuyện lại, nên nhiều người khao khát được trực tiếp đọc. Thế là tổ bèn cử anh Nguyễn Tiến Đức, một thành viên tổ Hình học, nguyên là sinh viên khóa 2, quê Hà Tĩnh ra Hà Nội để sao chép. Cuốn sách nguyên bản bằng tiếng Nga dài 547 trang in. Với một nghị lực phi thường anh Đức đã chép bằng hết, công phu, trình bày đẹp, về sau đánh một tập tài liệu phết bìa cứng hẳn hoi.
            Cũng theo hướng chuyên môn Hình học vi phân, tôi còn chưa quên một chuyện cảm động nữa. Có một tài liệu cơ bản, là hai tập sách bằng Tiếng Anh: "Các cơ sở Hình học vi phân" của tác giả Kobayshi và Nomizu. Tập 1 xuất bản năm 1963, dày 330 trang in. Trong quá trình tìm đọc, nghe nghóng, chúng tôi thấy giới khoa học nhắc nhiều đến bộ sách ấy nên anh em tha thiết muốn đọc. Bấy giờ, chỉ thư viện Khoa học kĩ thuật Trung ương mới có sách này, anh Trần Đình Viện đánh đường ra Hà Nội mượn. Sách được đưa về, mừng quá, tôi và anh Hoàng Gia Khiêm chia nhau chép đúng nguyên bản. Cái ngày chép xong tập 1, tôi còn ghi đáy là ngày 16 tháng 5 năm 1975. Sau đó, tôi mang sách ra Hà Nội trả lại thư viện. Tới năm 1980, trước nhu cầu bức xúc tài liệu tham khảo về Hình học vi phân của cán bộ và sinh viên, các học viên cao học và ngiên cứu sinh, tôi đã dịch trọn tập 1 sang Tiếng Việt và lưu tại thư viện Trường. Điều thú vị là ở Liên Xô, bộ sách hai tập này phải tới năm 1981 mới được dịch trọn bộ sang tiếng Nga.
            Thời gian qua đi thật nhanh, nó luôn là một thách thức đáng gờm đối với mọi ký ức con người. Riêng với tôi, mấy bản sách chép tay kể trên vốn đã góp phần chắp cánh cho nhiều thế hệ thầy trò chúng tôi, nay đã đổi màu trên giá sách, không hiểu sao vẫn luôn in đậm nét trong tôi mỗi khi tôi nhớ, nghĩ về Trường Vinh, về khoa Toán qua từng cột mốc thời gian.
 
 
DÂN SƯ PHẠM VINH Ở HÀ NỘI
 
PGS.TS. Văn Như Cương (viết năm 2004)
 
            Dân sư phạm Vinh ở Hà Nội rất đông. Chưa thống kê được đầy đủ, nhưng chắc chắn là có thể lập thành một trường ĐHSP với đội ngũ cán bộ khá là "siêu". Nếu nó được thành lập, có thể xếp khung cán bộ như sau (tạm căn cứ theo chức vụ cũ, nếu không có thì bổ nhiệm người mới theo tiêu chuẩn: hồng thắm, chuyên sâu):
            Hiệu trưởng: Nguyễn Thúc Hào, Hiệu phó: Phạm Quý Tư, Bí thư Đảng ủy: Nguyễn Chí Linh, Phó bí thư Đảng ủy: Phạm Hạo. Ban chủ nhiệm khoa Văn: Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đăng Mạnh, Phùng Văn Tửu. Ban chủ nhiệm khoa Toán: Nguyễn Văn Bằng, Nguyễn Đình Nhân, Hoàng Kỳ. Ban chủ nhiệm khoa Sinh: Hoàng Ngọc Bạt… Ban chủ nhiệm khoa Hóa: Hoàng Minh Châu, Trần Hữu Nhụy…
            Đó là nói về cựu cán bộ, còn cựu sinh viên cũng rất đông, đặc biệt là cựu học sinh chuyên Toán.
            Vì số lượng đông như thế nên một lẽ tự nhiên là người ta tìm đến nhau, và mong muốn có một hình thức sinh hoạt chung nào đó.
            Đầu tiên là "Hội học sinh cũ của các lớp chuyên Toán sư phạm Vinh" được thành lập và sinh hoạt đều đặn, một năm một lần Đại hội toàn thể vào dịp 20/11. Từ "sinh hoạt" ở đây được hiểu theo nghĩa "ăn tiệc và nói chuyện". Cầm đầu Hội này hiện nay là Hoàng Anh Tuấn, Giám đốc một cơ quan nào đó của Nhà nước. Số hội viên gồm hơn 100 người.
            Sau đó một thời gian, một số anh em gặp nhau, thành lập ra một tổ chức có cái tên rất dài: "Ban liên lạc cán bộ, sinh viên cũ của ĐHSP Vinh đang sống ở Hà Nội". Ban này do Văn Như Cương và Nguyễn Khắc Phi làm đồng Trưởng ban. Ban hội họp mỗi khi có chuyện cần bàn và cần làm. Chẳng hạn, Ban đã tổ chức 2 lần sinh nhật thầy Nguyễn Thúc Hào vào dịp thầy 70 và 80 tuổi. Ban này còn quyết định giao cho Văn Như Cương làm một cuốn phim về thầy Hào, cuốn phim được trình chiếu nhiều lần trên vô tuyến Trung ương. Ngoài ra, Ban còn thay mặt anh em tham dự các cuộc hiếu, hỉ…
 
 
SINH VIÊN SƯ PHẠM VINH VỚI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
 
Đặng Văn Thuận - nguyên sinh viên khóa 14
 
            Cuộc gặp gỡ của cựu sinh viên Trường ĐHSP Vinh đang sống và làm việc tại đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức đúng vào ngày đầu năm mới năm 1997. Đây là lần đầu tiên các thế hệ thầy giáo, sinh viên Trường ĐHSP Vinh từ khóa 2 đến khóa 25 của Trường ĐHSP Vinh từ mọi vùng của đồng bằng sông Cửu Long tụ hội về thành phố Cần Thơ họp mặt khá đông đủ.
            Dự buổi họp mặt hôm nay, mọi người rất cảm động vì sự có mặt của một số thầy giáo đã giảng dạy tại Trường ĐHSP Vinh. Những người thầy đã gắn bó với Trường Vinh, "với mảnh đất gió Lào nung cát bỏng, núi non trùng điệp, lắm bão nhiều mưa". Những người đã chịu nhiều khó khăn, vất vả, nhưng đã vượt lên, dồn hết tâm sức, đào tạo biết bao thế hệ sinh viên. Trong buổi họp mặt còn có các bạn cựu học sinh khối phổ thông chuyên Toán.
            Cuộc gặp mặt này là sự hội tụ của các thế hệ: thầy, trò, già, trẻ. Tuy tuổi tác và cương vị khác nhau nhưng đều có chung một niềm tự hào là đã từng sống, học tập và công tác tại Trường ĐHSP Vinh. Từ ngôi trường ấy ra đi.
            Mọi người bồi hồi nhớ về Trường ĐHSP Vinh. Một Trung tâm đào tạo giáo viên cho cả nước, được thành lập từ năm 1959. Chặng đường đã qua của trường đầy thử thách gian nan, nhất là những năm sơ tán, chín lần di chuyển địa điểm… thầy và trò Trường ĐHSP Vinh có quyền tự hào về quá khứ vẻ vang của mình, với những đóng góp xuất sắc cho ngành giáo dục, cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và xây dựng Tổ quốc. Trên 100 cán bộ, giáo viên của trường đã được cử đi chi viện, tăng cường cho các trường ĐHSP, CĐSP chủ yếu ở phía Nam. Sinh viên tốt nghiệp của trường hiện đang công tác trên khắp mọi miền đất nước (trong đó trên 700 người công tác ở các tỉnh phía Nam, 250 người làm việc tại các tỉnh phía Bắc), (theo số liệu của Trường ĐHSP Vinh tháng 7 năm 1993).
            Tại đồng bằng sông Cửu Long, số thầy giáo, học sinh, sinh viên của trường hiện đang công tác ở đây rất đông. Sinh viên thuộc hầu hết các khóa học của Trường ĐHSP Vinh đều có mặt ở đây. Đầu tiên là những anh, chị khóa trước đi theo con đường "đi B" vào Nam chiến đấu. Sau ngày giải phóng miền Nam, các thầy, cô giáo và các sinh viện chi viện cho miền Nam ngày càng nhiều hơn, nhất là từ khóa 14 đến khóa 22, có những đoàn tàu chỉ dành riêng cho sinh viên tốt nghiệp vào Nam công tác.
            Chúng tôi chưa nắm hết được đầy đủ số anh, chị em sinh viên Trường Vinh vào công tác ở đồng bằng sông Cửu Long. Sơ bộ chúng tôi mới biết được 300 người trong đó: khoa Toán có 110, khoa Lý có 45, khoa Hóa 25, khoa Văn 86, khoa Sinh 20, khoa Sử, Chính trị 14.
            Ngoài ra còn có các cựu học sinh chuyên Toán (không chỉ là sinh viên Trường ĐHSP Vinh) đang công tác tại đồng bằng sông Cửu Long. Trong số các anh chị kể trên, có rất nhiều người đã phấn đấu, trưởng thành và giữ các chức vụ quản lý chủ chốt trong ngành giáo dục như: Giám đốc, Phó Giám đốc Sở, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường CĐSP, THSP, PTTH, Trưởng, Phó trưởng phòng giáo dục…
            Ở tất cả các trường chuyên của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đều có mặt anh chị em giáo viên là cựu sinh viên Trường ĐHSP Vinh và đã góp phần rèn luyện cho các em học sinh đạt được nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi trong nước và quốc tế.
            Trong những vùng sâu, xa nhất của đồng bằng sông Cửu Long, anh chị em cựu sinh viên Trường Vinh cũng đều có mặt.
            Xa quê hương, xa gia đình biết bao khó khăn, nhất là những ngày đầu mới ra trường nhận công tác. Nhưng anh chị em đã phấn đấu vươn lên và đã coi đồng bằng sông Cửu Long là quê hương thứ hai của mình.
            Với số lượng đông đảo, lại có một trình độ nghiệp vụ cao, cộng thêm lòng yêu nghề mến trẻ, lòng nhiệt tình công tác, chắc chắn rằng các cựu sinh viên Trường ĐHSP Vinh ở đây sẽ có nhiều đóng góp hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng bằng sông Cửu Long.
 
 
CHIẾN TRƯỜNG GỌI CHÚNG TÔI CÓ MẶT
 
Kim Nhật (ghi theo lời kể của thầy Trần Xuân Sinh -
nguyên CBGD khoa Toán)
 
            Những thế hệ thanh niên suốt nhiều năm chống Mỹ cứu nước, sống rất giàu lý tưởng và hoài bão. Các khẩu hiệu "Thanh niên 3 sẵn sàng", hướng phấn đấu "vừa hồng, vừa chuyên" không chỉ nói đầu miệng cho vui, mà đã trở thành phương châm, thành lẽ sống của hàng triệu, hàng triệu trái tim tuổi trẻ trong đó có cán bộ và sinh viên khoa Toán - Trường ĐHSP Vinh.
            Mặc dầu đang theo đuổi học tập, mỗi người một hoàn cảnh riêng, nhưng khi Tổ quốc gọi lên đường cầm súng, giải phóng miền Nam thì hầu hết đều sẵn sàng viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Bây giờ kể lại, có thể có người không tin. Có những lá thư hồi đó, chúng tôi viết bằng máu của mình! Đã là thanh niên phải được rèn luyện, thử thách không chỉ chốn học đường mà còn ngay cả nơi hòn tên mũi đạn, cái sống, cái chết trong gang tấc.
            8 năm diễn ra chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ (1965 - 1973), thanh niên khoa Toán có đến 5 lượt lên đường nhập ngũ với tổng số trên 100 người trong đó có 5 cán bộ giảng dạy. Đợt nhập ngũ đông nhất là vào tháng Giêng năm 1972 có 42 người, 6 cán bộ (riêng tổ Hình học đóng góp 4 cán bộ giảng dạy). Theo thống kê chưa đầy đủ, có 16 liệt sĩ quê từ Thanh Hóa vào tới Quảng Bình, chiếm hơn một phần tư số liệt sĩ của toàn trường.
            Thầy Trần Xuân Sinh nhớ lại: Kỷ niệm sâu sắc nhất của tôi phải kể tới đợt nhập ngũ tháng Giêng năm 1972 ấy. Tôi cũng như nhiều sinh viên và đồng nghiệp nhận được giấy gọi nhập ngũ lúc 5 giờ chiều thì 4 giờ sáng hôm sau phải về khu hiệu bộ Nhà trường đóng ở xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu. Đúng 6 giờ chiều, khoa làm lễ tiễn đưa cán bộ và sinh viên lên đường. Anh Hoàng Gia Khiêm bấy giờ là Thường vụ Liên chi đoàn khoa Toán thay mặt anh em nhập ngũ trịnh trọng đọc lời tuyên thệ, có đoạn: "Chúng tôi, những người con khoa Toán lên đường chống Mỹ cứu nước, xin kính chào các thầy cô giáo, các cán bộ và anh chị em sinh viên của khoa. Dưới lá cờ Tổ quốc, trước các thấy cô cùng tất cả các bạn, chúng tôi xin hứa ra đi sẽ làm tròn nhiệm vụ được giao, xứng đáng với truyền thống khoa Toán, với niềm tin của thầy cô, các bạn. Xin hẹn trở lại trong ngày vui chiến thắng và đoàn tụ!"
            Những tháng năm trong quân đội, một số thầy trò khoa Toán vẫn có dịp gần gũi, giúp đỡ nhau, tình cảm vẫn nhiều ân nghĩa chẳng khác ngày nào còn dưới mái trường sư phạm. Mặt trận Thừa Thiên - Huế hồi ấy gian truân lắm. Mỗi lần hành quân, hay đi lấy củi rừng, những cậu lính vốn là sinh viên Trường Vinh vẫn theo dõi và sẵn sàng gánh vác giúp thầy khi có việc hệ trọng. Có lần tôi nhận nhiệm vụ lên trinh sát một cái chốt của địch. Đi được mấy bước, một sinh viên khoa Toán đuổi theo, níu tôi lại, dặn dò rất tỉ mỉ những nơi gài mìn. Chuyến đi ấy, nhờ chủ động biết trước nơi nguy hiểm mà tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Qua thực tiễn, cái mặc cảm ban đầu "trí thức vào chiến trường" bị đánh bạt dần, thay vào đó là niềm tin mến của đồng đội gần xa. Đa số chúng tôi được kết nạp Đảng tại mặt trận, một số trở thành những cán bộ cốt cán của đơn vị - thấp nhất cũng là tiểu đội phó.
            Sống trong khói lửa, sự mất còn chỉ trong nháy mắt, nhưng thật lạ, ai cũng vậy, đều tranh thủ học. Học dưới hầm sâu, học khi lên mặt đất, học giữa hai trận đánh… và chủ yếu chúng tôi học tiếng Anh. Ba lô người nào cũng có một cuốn sách học tiếng Anh hoặc một cuốn truyện. Tôi còn học thuộc bài ca dao đối đáp lưu truyền trong đơn vị:
                        Tiếng Anh với tiếng đồng bào
                        Hỏi hai tiếng ấy, tiếng nào hay hơn?
                        Tiếng đồng bào được sắn được cơm
                        Tiếng Anh được chữ nào kém hơn tiếng đồng bào
            Một số gương sáng trong chiến đấu như trường hợp anh Nguyễn Đình Kiểu (thương binh 3/4), anh Hứa Viết Dũng (sinh viên năm 3 khoa Toán, đã hy sinh) nay vẫn còn được nhiều người nhắc nhở, cảm phục.
            Sau ngày 30/4/1975, số cán bộ sinh viên khoa Toán còn lại trở về Trường Vinh. Tất cả vẫn giữ được ngọn lửa nhiệt tình trước cuộc sống còn nhiều vất vả và nghị lực vượt khó trong học tập, NCKH, trong giảng dạy. Một số người tôi biết như anh Hoàng Gia Khiêm, anh Nguyễn Hữu Lợi, anh Trần Ngọc Giao… đều đang đảm nhiệm nhận những trọng trách trong ngành giáo dục. Nhiều người nữa là Hiệu trưởng các trường phổ thông.
            Chiến tranh đã qua đi, những bài học làm người vẫn còn cả đấy, hình như ngày càng sáng rõ, có sức thuyết phục của nó. Tôi nghĩ, đối với thanh niên trí thức ta ngày nay, tinh thần sẵn sàng, hướng phấn đấu vừa hồng vừa chuyên vẫn còn nóng hổi ý nghĩa thời sự. Đó như là một sự đón nhận thông minh đối với bất cứ lĩnh vực chuyên môn nào.
 
 
PHONG TRÀO XÂY DỰNG TẬP THỂ HỌC SINH XHCN
CỦA SINH VIÊN KHOA TOÁN
 
Kim Nhật (ghi theo lời kể của ThS. Hà Văn Sơn)
 
            Tôi gặp thầy giáo Hà Văn Sơn đúng vào ngày sinh viên khóa 45 nhập trường. Không khí như một ngày hội lớn. Nhìn những gương mặt trẻ, lại được gặp thầy Sơn - người đã từng làm Bí thư Đoàn trường 8 năm (từ năm 1982 đến 1990), tự nhiên, câu chuyện của chúng tôi lại hướng về phong trào xây dựng tập thể học XHCN của sinh viên cách đây khá lâu.
            Từ những năm 1969, 1970, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã có quyết định phát động ở quy mô toàn quốc, đối với các thanh thiếu niên trong Nhà trường, phong trào xây dựng tập thể học sinh XHCN. Phong trào này, theo thầy Hà Văn Sơn, đã rộ lên, gây được nhiều chú ý là vào khoảng thời gian 1975 đến 1980. Từ năm 1986 thì chuyển sang phong trào khác với quy mô và tính chất khác trước. Ở trường ĐHSP Vinh, khi phong trào xây dựng tập thể học sinh XHCN được phát động, hầu hết các Liên chi đoàn đều tham gia hưởng ứng, phải kể đến Liên chi đoàn khoa Toán.
            Khi hỏi về những nội dung chính, những mục tiêu mà phong trào hướng tới, thầy Hà Văn Sơn cho biết: Đoàn kết nội bộ, tinh thần tự giác của mỗi Đoàn viên trong chi đoàn; Tinh thần và kết quả học tập, rèn luyện; Các hoạt động lao động văn thể.
            Nhiều người còn chưa quên hoàn cảnh rất khó khăn, thiếu thốn về điều kiện vật chất của Đất nước nói chung của Trường ĐHSP Vinh giai đoạn 1975 - 1980. Tuy vậy, các đoàn viên trong Trường vẫn không chùn bước, trái lại đã cùng nhau trụ vững và lớn lên theo phong trào Đoàn. Các chi đoàn xây dựng được tập thể học sinh XHCN đều thực hiện tốt cả 3 nội dung vừa nêu. Cụ thể, họ xây dựng được khối đoàn kết nhất trí, tinh thần tự giác của mỗi đoàn viên được phát huy một cách đầy đủ. Hàng tháng căn cứ vào nội dung yêu cầu đã đặt ra, các chi đoàn đều sinh hoạt tư tưởng kiểm điểm tình hình của chi đoàn mình, kịp thời phê phán đúng hiện tượng không tốt trong học tập và tu dưỡng, đưa đoàn viên vào mọi hoạt động thi đua của chi đoàn. Nâng cao chất lượng học tập là một vấn đề nóng hổi và trọng tâm, đòi hỏi trí tuệ của toàn thể đoàn viên trong chi đoàn. Không những học kiến thức mới mà còn phải ôn tập kiến thức cũ. Cùng với lớp, các chi đoàn đã mở ra nhiều hội nghị, đề xuất nhiều hình thức, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập. Để duy trì nề nếp, chế độ quy định học bảo đảm 10 giờ học chất lượng, nhiều chi đoàn đã cho ra đời tổ trực ban, đội cờ đỏ nhằm duy trì mọi hoạt động của lớp và chi đoàn trong ngày và trong tuần. Cuối tuần có nhận xét ưu, khuyết điểm cụ thể. Các chi đoàn có tổ cán sự học tập, lên kế hoạch giúp đỡ những bạn học yếu, kém; phụ đạo những vấn đề tập thể yêu cầu. Một số chi đoàn cùng với tổ cán sự, như chi đoàn 14C, 14D Toán xây dựng một tờ báo nghiệp vụ, nội dung chính là giải những bài Toán khó trong chương trình các lớp 8, 9, 10 phổ thông (thời bấy giờ).
            Song song với việc xây dựng phong trào nâng cao chất lượng học tập các chi đoàn tập thể học sinh XHCN rất coi trọng khâu tổ chức tốt cuộc sống tự quản tập thể, sinh hoạt nội trú có nề nếp, rèn luyện nếp sống sư phạm, nơi ăn, chốn ở gọn gàng, ngăn nắp, trật tự. Lớp học, Nhà trường được trang trí gọn đẹp. Hàng tuần làm tổng vệ sinh vào ngày thứ Bảy, tu bổ lại nhà ở, có nhận xét, bổ cứu cụ thể đến từng phân đoàn.
Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao trong các tập thể học sinh XHCN cũng rất sôi nổi. Thể dục buổi sáng trở thành "món ăn" hàng ngày. Hầu hết các chi đoàn đều có đội văn nghệ khá mạnh. Các đội bóng thường xuyên hoạt động giao hữu với các chi đoàn bạn và cả với chi đoàn cán bộ giảng dạy trong khoa. Nếp sống khẩn trương, khoa học, lành mạnh, sôi nổi, vui tươi trở nên phổ biến. Những bài hát quy định của Đoàn trường cũng được tập duyệt chu đáo, trở thành một nét sinh hoạt tinh thần trước giờ học, trong các Hội nghị của chi đoàn.
            Cuối cùng không thể không nói đôi lời về các hoạt động lao động xây dựng trường, lao động XHCN, lao động nghĩa vụ. Đây cũng là một nội dung học tập, được mỗi đoàn viên nhận thức sâu sắc. Chính vì thế, qua mỗi buổi, mỗi đợt lao động, các chi đoàn làm công tác tổ chức rất chặt chẽ, động viên tính tự giác, tinh thần làm chủ của mỗi đoàn viên…
            Có dịp nhớ lại những chặng đường đã qua của công tác Đoàn ở Trường ĐHSP Vinh và khoa Toán, thầy giáo Hà Văn Sơn vẫn còn bồi hồi và quả quyết nói với tôi rằng: Phong trào xây dựng tập thể học sinh XHCN tuy đã qua rồi, nhưng nó thực sự có ý nghĩa rộng lớn, sâu sắc tới mỗi tập thể cũng như tới mỗi cá nhân đoàn viên. Một thời, đó là động lực thúc đẩy việc rèn luyện, học tập của không biết bao học sinh, sinh viên Trường Vinh trong môi trường sư phạm, để sớm trở thành những nhà giáo "Tung cánh muôn phương".
 
 
LẶNG LẼ TỎA BÓNG
 
Trần Hải (ghi theo lời kể của thầy Lê Thế Lân -
nguyên CBGD khoa Toán)
 
            Tôi đã không dấu nổi niềm cảm kích từ đáy lòng khi tới thăm thầy - NGƯT. Lê Thế Lân. Năm tháng và cống hiến dường như đã bình lặng cùng thời gian, ở thầy như chỉ còn lại sự tĩnh lặng của một cây lớn, những kỳ đơm hoa, dâng trái cho đời đã đi qua, giờ đây lặng lẽ tỏa bóng che chở cho lớp cây mới mọc lên.
            Năm 1931, thầy chào đời ở vùng chiêm trũng Yên Định (Thanh Hóa), một xứ nghèo như bất kỳ làng quê nào ở đất Thanh Hóa lúc đó. Nhà ông cụ thân sinh vốn là người có chút ít chữ nghĩa (làm thư ký đo đạc điền địa) nên thầy được đi học từ nhỏ. Hết lớp nhất (cấp 1) kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thầy nghỉ học và trở thành "cậu giáo" Lân ở các lớp bình dân học vụ. Đây có lẽ là viên gạch đầu tiên cho sự nghiệp giáo dục của thầy, bởi thầy tâm sự "nghề dạy học gắn với mình như một tiền định, nó đến cùng mình từ thuở thiếu niên mà". Hai năm sau đó, thầy tiếp tục theo học hết đệ tứ (cấp 2) tại quê ngoại.
            Cùng với chiến dịch Thu Đông 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân ta vào giai đoạn tiền đề cho tổng phản công. Thầy Lân lên đường nhập ngũ, với vốn kiến thức sẵn có thầy được cử đi học ở Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sỹ quan lục quân). Kết thúc một năm rưỡi dùi mài kinh sử, thầy lần lượt là Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng một đơn vị huấn luyện tân binh thuộc Quân khu 4. Năm 1952 chuyển về đơn vị vận tải, thầy lại mải miết hòa nhập vào dòng chảy cuồn cuộn của cả nước chở hàng hóa, khí tài, lương thực lên Điện Biên, bắt đầu một chiến dịch rung động toàn địa cầu.
            Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đồng nghĩa với việc thực dân Pháp chấm dứt sự đô hộ trên toàn cõi Đông Dương. Trong rất nhiều việc phải làm lúc đó, Đảng ta chủ trương phát động cuộc giảm tô, giảm tức và làm cuộc cách mạng cải cách ruộng đất ở nông thôn. Quân đội được xem như lực lượng chủ chốt để thực hiện cuộc cải cách đó. Thầy Lân cũng trở về "ba cùng" (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với bà con các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hải Dương. Những khí chất của anh Bộ đội Cụ Hồ ngày nào đã giúp thầy thực sự gần gũi với dân. Thời điểm ở Lạng Sơn, thầy nói giỏi cả tiếng dân tộc, thành thạo nấu món cháo rau rừng… như người miền núi chính hiệu.
            Năm 1956, Lê Thế Lân tiếp tục học hết chương trình phổ thông trong quân đội rồi tham gia dạy học suốt ba năm sau đó tại đơn vị. Đến năm 1959, anh được cử đi ôn thi và đỗ rất cao vào Trường ĐHSP Hà Nội. Mới chân ướt chân ráo vào trường, do yêu cầu đào tạo, Trường ĐHSP Vinh được thành lập, một số học sinh quê Khu IV chuyển về, trong đó có cả sinh viên Lê Thế Lân, những nhà giáo tương lai của Trường ĐHSP Vinh. Suốt quá trình rèn luyện, thầy luôn là một học sinh gương mẫu, đạt kết quả cao trong tất cả các môn học. Bởi vậy, Nhà trường đề nghị phía quân đội cho anh được ở lại trường làm giáo viên. Và năm 1963, thầy chính thức trở thành nhà giáo bắt đầu cho sự nghiệp trồng người không ngừng của mình. Lúc đó, Nhà trường đang đón nhận học sinh khóa 4.
            Trong bối cảnh lửa đạn hỗn độn của chiến tranh phá hoại miền Bắc từ chiến dịch leo thang của đế quốc Mỹ, thầy tạm thời chia tay với bục giảng lên đường sang học tại Đại học Tổng hợp Buđapét (Hungary). Đó cũng là một nhiệm vụ cách mạng, bởi Đảng và Nhà nước rất cần một lớp người trí thức xây dựng Tổ quốc khi thắng lợi hoàn toàn. Năm 1971, với học vị Tiến sĩ, thầy tiếp tục trở lại tham gia giảng dạy ở địa điểm sơ tán của Trường tại Yên Thành. Lớp học lúc đó ngập tràn mũ rơm và nằm cạnh hầm trú ẩn, bom đạn kẻ thù không ngăn nổi khao khát học tập của thầy trò Trường ĐHSP Vinh.
            Hiệp định Pari được ký kết, trường trở về chốn cũ, bắt đầu đặt những nền móng đầu tiên từ những gạch vụn hoang tàn của cả Thành Vinh. Với lời tuyên bố "Đưa Bắc Việt trở lại thời kỳ đồ đá", Nichxơn đã điên cuồng gần như san phẳng thành bình địa thành phố Đỏ anh hùng. Bởi vậy công việc cải tạo lại cơ sở vật chất gặp vô vàn khó khăn. Đây có lẽ là chặng đường "chèo chống" và gian nan nhất mà Nhà trường phải vượt qua. Đời sống cán bộ, giáo viên tạm bợ, kinh tế quá eo hẹp, lượng thí sinh thi tuyển giảm bớt một cách đáng lo ngại. Nguy cơ giải thể không còn là chuyện xa vời. Trong tình hình đó, đội ngũ cán bộ, giảng viên Nhà trường đã xin chuyển vào Nam hoặc ra Hà Nội, những mong thay đổi chút ít trên hành trình mưu sinh đầy gập ghềnh, vất vả. Mặc cho bao biến động quanh mình, thầy vẫn ở lại bám trụ cùng Trường, chí cốt gắn bó với những người ở lại trong cái đận gian nan đó.
            Được như hôm nay, Trường ĐHSP Vinh đã ghi nhận nhiều rất nhiều mồ hôi, tâm huyết từ trái tim, trí óc của hàng chục thế hệ giáo viên, công nhân viên, sinh viên. Thầy Lê Thế Lân cũng lặng lẽ hiến dâng cả cuộc đời mình với tất cả tấm lòng của một nhà sư phạm.
            Suốt 35 năm công tác (1961 - 1996), trừ thời điểm nghiên cứu sinh và giảng dạy tại nước ngoài, thầy đều đứng lớp dạy Toán, chuyên ngành Giải tích với nhiều cương vị khác nhau: Trưởng bộ môn, phó chủ nhiệm, chủ nghiệm Khoa Toán. Hàng chục khóa sinh viên từ mái trường này đã trưởng thành là các nhà Toán học, các tiến sĩ… trong đó có cả công sức gieo hạt, chăm sóc của thầy. Ngoài công tác giảng dạy, thầy tham gia nhiều đề tài khoa học, viết giáo trình. Đề tài "Giả đa tạp" (lĩnh vực Tôpô Đại số), cuốn Giải tích Toán học, Tôpô Đại cương… được đánh giá cao, là tài liệu có giá trị cho sinh viên Đại học và Sau đại học.
            Bởi vậy, chuỗi dài những ghi nhận của Nhà nước đối với thầy cũng tăng theo. Năm 1984, thầy được phong hàm Phó giáo sư; năm 1992 được tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Huân chương chiến thắng, Huân chương chiến sỹ vẻ vang, Huân chương chống Mỹ cứu nước, Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, rất nhiều Bằng khen, Giấy khen của Bộ, của tỉnh… là những danh hiệu cao quý mà thầy có.
            35 năm, thầy đã đi qua gần trọn chặng đường lịch sử của Trường ĐHSP Vinh. Thời gian đã kịp làm mái tóc thầy bạc trắng. Ở tuổi "xưa nay hiếm", chân có phần chậm, mắt có phần mờ nhưng thầy đã có an nhiên tự tại và thanh thản nhìn lại quãng đời mà mình đã đi qua. Thầy bộc bạch: "Trong những năm ở Trường, mình đã làm hết mình, tự thấy như thế là được, bởi quần chúng, bởi cán bộ, các em tin yêu và cảm mến". Vâng, kính thưa thầy, đó là đạo lý phấn đấu suốt đời của một nhà giáo như con tằm rút ruột, vắt kiệt cho đời những sợi tơ vàng để rồi thanh thản tâm tưởng, đi một quãng đời còn lại.
            Tới thăm thầy, thấy hai vợ chồng già cùng tựa vào nhau bình thản trước những đổi thay, cô Hoàng Thị Tơ, người bạn trăm năm, dù chứng đau thần kinh tọa, làm việc, đi lại rất khó khăn, vẫn rất tự hào vì có 31 năm phục vụ tại Trường, kể cho chúng tôi nghe một thời nhọc nhằn nhưng đẹp đẽ. Bốn người con của thầy đều đã qua đại học dẫu cho cả bốn vẫn bấp bênh trong cuộc mưu sinh, nhưng thầy vẫn không đòi hỏi bằng ảnh hưởng của 35 năm công tác, bằng học hàm Phó giáo sư. Thầy vẫn lặng lẽ tỏa bóng cho mọi thế hệ cây con đang lên, lặng lẽ và đôn hậu.