Thế hệ sinh viên đầu tiên của Trường

             

Tôi đã lớn lên từ trường Đại học sư phạm Vinh

                                                                                                       Trần Đình Sử

 Năm 1966 tôi được quyết định về công tác tại khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Vinh, ở tổ bộ môn Lý luận văn học. Đến năm 1976 lên đường sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh tại trường Đại học Tổng hợp Kiep, tính ra đã sống và làn việc tại khoa Văn Trường ĐHSP Vinh đúng 10 năm trời. Mười năm trong đời người đâu có ngắn ngủi và lòng tôi mang nặng biết bao kỷ niệm vui buồn về mái trường, về tập thể khoa Văn nơi tôi đã được trưởng thành! Nhớ về Trường Vinh là tôi nhớ lại những gương mặt thân yêu, từ chú Huỳnh Lý, nguyên Chủ nhiệm khoa (thân sinh của Nguyễn Phan Lê), người bạn thân của tôi đã ngã xuống chiến trường Khu V năm 1969, đến các anh Nguyễn Duy Bình, Nguyễn Xuân Khoa, Hoàng Tiến Tựu, Lê Kinh Khiên, Nguyễn Khắc Phi, Đậu Văn Ngọ, Lê Bá Hán,Trần Duy Châu..., đến các bạn trẻ như Lê Văn Chín, Hoàng Việt Anh, Đặng Ngọc Lễ... Bây giờ kẻ mất người còn, kẻ đi người ở, nhưng trong tâm trí vẫn in sâu những ánh mắt bạn bè, những tiếng cười trong trẻo vang lên từ nhà ăn của Khoa, những trưa, những chiều...

Năm tôi mới về Trường Vinh là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Tôi về Trường bằng xe đạp cùng chú Huỳnh Lý, anh Nguyễn Xuân Nam, được bố trí ở lại Hà Thanh, thì hôm sau được gặp Hiệu trưởng Nguyễn Phúc Hào. Tôi phải dậy sớm đi bộ qua nhiều con đường ruộng mấp mô, trơn nhẵn để đến gặp Hiệu trưởng, trong bụng băn khoăn không biết việc gì. Thầy Nguyễn Thúc Hào tiếp tôi trong một căn nhà nhỏ, cô Dung pha một ấm trà thật ngon rồi thầy hỏi tôi đủ chuyện: trước học ở đâu, sang Trung Quốc học ở đâu, học cái gì... Sau một tiếng, có khách tới, tôi từ biệt ra về mà không hiểu nhằm mục đích gì. Sau đó ít lâu có người giải thích cho tôi rằng thầy Hào có thói quen gặp mặt hỏi chuyện những người mới về làm việc trong trường của thầy. Lòng tôi xiết bao cảm động. Trước đó sau khi tốt nghiệp Đại học tôi được giữ lại công tác ở ĐHSP Hà Nội, nhưng chưa một lần được gặp kiểu như vậy. Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi về Trường ĐHSP Vinh.
Bây giờ mọi người đều biết từ khoa Văn ĐHSP Vinh có một đội ngũ trí thức có uy tín như Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ.. nhưng ít ai biết trong những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, ngoài việc làm tròn các công việc được giao, họ là những người tự học rất quyết liệt. Anh Nguyễn Khắc Phi sau khi tự học nắm vững tiếng Trung đang tự học tiếp tiếng Pháp. Hồi đó tôi mới mang ở Trung Quốc về bộ giáo trình tiếng Pháp cho sinh viên khoa tiếng Pháp của họ, thế là anh Phi mượn sử dụng ngay. Anh Trần Hữu Duy thì mượn tôi bộ Cổ Đại Hán ngữ của Vương Lực dày trên 1500 trang và chép lại nguyên văn làm tài liệu tự học. Anh Hiếu và anh Mạnh hễ có điều kiện là ra Hà Nội lao ngay vào. Không khí đó lôi cuốn tôi. Tôi tự học tiếng Nga và mỗi khi ra Hà Nội thường gặp các anh ấy ở Thư viện Khoa học xã hội. Có thể nói, tôi tiếp xúc được với những gì mới nhất thời đó qua sách báo tiếng Nga. Nhờ có trang bị ấy mà chúng tôi trưởng thành lên sau này.
Khoa văn Trường ĐHSP Vinh hồi đó trong một phạm vi nhất định có một không khí tin cậy, dân chủ. Tôi nhớ khi mới về Khoa Văn, chỉ mới là một thanh niên 26 tuổi tri thức ít ỏi, kinh nghiệm mỏng manh, chưa hề có bài đăng báo, thế nhưng các anh lớn tuổi vẫn thường hỏi han, trao đổi. Anh Tựu anh Châu thường trao đổi với tôi... Anh Nguyễn Duy Bình, anh Lương Duy Thứ, anh Lê Kinh Khiên đều đưa các bài viết của các anh ấy cho tôi đọc và góp ý. Tất nhiên, tôi chẳng góp được ý gì, nhưng tôi học tập ở các anh ấy rất nhiều và đặc biệt là sự tin cậy bắt buộc tôi phải tìm đọc, nắm bắt vấn đề và giải quyết các vấn đề, trước hết là cho bản thân mình.
Ngay từ hồi ấy, tôi đã nhận thấy vấn đề đặc trưng của văn học chưa được lý giải đúng hướng, nhiều tri thức lý luận văn học ít có giá trị thực tiễn. Ngay từ hồi ấy tôi đã thấy phản ánh luận không thể giải quyết đầy đủ đặc trưng văn học. Song các anh Lê Bá Hán, Trần Văn Hối, Nguyễn Duy Bình đã can ngăn tôi. Ngay từ hồi ấy tôi đã muốn tìm một con đường khác để tiếp cận các giá trị nghệ thuật. Ở khoa Văn ĐHSP Vinh tôi đã viết thảo luận đầu tiên về phong cách thơ Tố Hữu và tiểu luận Đặc trưng văn học trong tính chỉnh thể của nó. Trong tiểu luận thứ hai, tôi đã phê phán việc nhìn đặc trưng văn học qua các cặp phạm trù triết học, đúng thì đúng nhưng lại chung chung, ít bổ ích. Tôi nhớ anh Hoàng Ngọc Hiến đã khen tôi, cả tiểu luận 100 trang không có trang nào dở, mặc dù chê tôi chưa tiếp cận được những tư tưởng lý luận mới nhất của Liên Xô.
ĐHSP Vinh hồi ấy, tuy trong hoàn cảnh sơ tán, song là một môi trường tự học rất tốt. Thư viện trường, riêng phần chia về khoa Văn là rất phong phú. Tôi đã được đọc ở đây nhiều bộ sách quý, rất tiếc là sau này bị mất mát đi nhiều.
Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng đối với tôi, ĐHSP Vinh là nơi tôi đã gắn bó với tất cả nhiệt tình của tuổi trẻ, là nơi tôi đựơc học tập và lớn lên. ĐHSP Vinh nay đã trở thành Đại học Vinh và khoa Ngữ Văn đã có một đội ngũ thầy cô giáo trẻ với rất nhiều Tiến sỹ sung sức, tài năng. Tôi mong họ mau chóng trưởng thành để có thể đóng một vai trò xứng đáng trong hệ thống các trường Đại học của cả nước.
 
 
Nhớ thuở ban đầu
                                                                                                               PGS.TS. Hoàng Kỳ
 
            Thấm thoắt thế mà đã 45 năm! So với lịch sử thì 45 năm chỉ là một khoảnh khắc, nhưng so với một con người thì đó là cả một đời công tác, có khi là cả một đời người. Là một trong mấy thầy giáo đầu tiên của Trường ĐHSP Vinh, của khoa Toán, những dịp này tôi không khỏi bồi hồi nhớ lại biết bao chuyện buồn, vui, bao gian khổ và thành công, bao kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng, bao gương tốt, bao tấm lòng vàng và cả một ít người xấu mà mình đã từng gặp, làm việc trong suốt trong quãng thời gian đó, nhất là trong những năm đầu, vì "Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm chưa dễ mấy ai quên".
            Hè năm 1959, trong một đợt học tập chính trị, chúng tôi được phổ biến là Chính phủ đã có Quyết định mở một Trường ĐHSP mới đặt tại Vinh, với ý nghĩa đó là quê hương Xô - Viết và quê hương Bác Hồ kính yêu và đặc biệt đó là trường Đại học xa nhất về phía Nam của nền giáo dục XHCN, đó là "Ngọn cờ hồng trên quê hương Xô - Viết", là ngọn cờ đầu tiên trên tuyến đầu đấu tranh thống nhất nước nhà". Hồi đó, khắp nơi đang chiếu rộng rãi bộ phim Trung Quốc "Cờ hồng trên núi Thuý" nên thuật ngữ đó làm nức lòng các cán bộ trẻ chúng tôi rất nhiều. Hơn nữa, phong trào đi Tây Bắc, Việt Bắc đang rầm rộ, "Đâu cũng là Quê Hương" lại thêm lời hứa của các đồng chí ở Vụ tổ chức "Các đồng chí vào đó xây dựng Trường mới, độ 3 năm ổn định rồi lại trở về Hà Nội" nên chúng tôi ra đi lòng thật thoải mái. Năm đầu tiên có 4 thầy giáo Toán từ Hà Nội vào (Thầy Nguyễn Thúc Hào vào làm Hiệu trưởng, hồi đó còn gọi là Giám đốc, anh Nguyễn Văn Chù, anh Văn Như Cương và tôi, mới giảng dạy được 3 năm) đến Vinh có thêm 2 thầy giáo Toán được điều động về (anh Nguyễn Văn Bàng từ Trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng, anh Đào Luyện từ trường cấp 3 Phan Đình Phùng). Song học kỳ 1 năm đầu chỉ có 4 bộ môn Toán là Giải tích (anh Chù), Hình học sơ cấp (anh Cương) và Đại số sơ cấp (anh Kỳ). Còn môn Nga văn do anh Phúc, môn Chính trị học chung với lớp Văn. Sau đó 3 năm, có đồng chí ra hỏi lại Vụ Tại chức thì được biết là: "Không có văn bản nào nói thế", mà "Đâu Đảng cần Thanh niên có, đâu khó có thanh niên". Vả lại, lúc nào cũng có "một cái gì đó" đang chờ trước mắt: hoặc sắp tăng lương, hoặc sắp kết nạp Đảng, hoặc sắp xếp kết nạp Đảng, hoặc sắp đi học Ngoại ngữ, thậm chí sắp đi nước ngoài... Cuối cùng, lớp thầy giáo đầu tiên ấy đã công tác tại Trường, tại Khoa ít nhất là hai chục năm, nhiều nhất là gần bốn chục năm, hoặc đến khi về hưu hoặc về cõi vĩnh hằng (anh Chù).
            Cuối lớp học chính trị, anh Chù nhắn tôi đến gặp anh để cùng anh đến Thư viện chọn sách cho Trường Vinh (một buổi khác, anh Chù đã cùng anh Cương làm việc ấy). Chúng tôi được phép vào các Thư viện lớn, cứ thấy cuốn nào cần về Toán thì sắp riêng ra, lập danh mục và đóng thùng chở về Vinh. Về nguyên tắc, cuốn nào có từ 2 bản trở lên thì chúng tôi mới được lấy, song có những cuốn sách quý chỉ có độc một bản mà chúng tôi vẫn xin được cho Vinh. Thật là một thời kỳ vàng son của tinh thần XHCN, của sự "hợp đồng tác chiến", trong không khí "Cả nước vì miền Nam". Nhờ thế mà trong Thư viện đầu tiên của Trường các bộ sách Toán quý hiếm đều có mặt.   Tháng 10/1959, tôi về Vinh. Hồi đó, đường rất xấu (vì trong kháng chiến chống Pháp, đường quốc lộ bị phá hoại triệt để, các "hố ngang hố dọc, chữ i, chữ tờ" mới được lấp lại), lại còn quá nhiều phà lớn, phà nhỏ nên đi từ Hà Nội vào Vinh mất trọn một ngày ôtô xóc kinh người. Tuy vậy, tôi rất vui và cảm thấy thú vị với cảnh "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh - Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ". Tôi vốn có "bệnh xê dịch" (chữ của Nguyễn Tuân) cho nên dù nghề dạy học là nghề tĩnh tại, lại thêm thời gian đó giao thông còn khó khăn và lạc hậu mà trong những năm trước ở Hà Nội tôi cũng đã đi thăm được hầu khắp các địa danh ở Đông Bắc bộ (Hạ Long, Trà Cổ, Hòn Gai, Cẩm Phả...), Tây Bắc (Nà Sản, Sơn La, Điện Biên Phủ...), Việt Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng...), Cực Bắc (Đồng Đăng, Lạng Sơn, Hữu nghị quan...). Tuy thế, về phía Nam tôi chỉ mới đi thăm được các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và chưa vượt quá Tĩnh Gia (Thanh Hoá). Cho nên lần này ngoài cái thú khám phá miền đất mới của người du lịch còn được kích thích bởi ý nghĩa "khai phá" một sự nghiệp mới mà các cấp lãnh đạo đã giao cho chúng tôi, cho nên tôi ra đi với sự hăm hở và hy vọng: "Tất cả còn ở phía trước", đúng là "lòng phơi phới dậy tương lai" (Tố Hữu).
            Vì Trường mới mở nên tôi đến Vinh với chỉ lời dặn "tìm đến nhà Dòng". Đến nơi, cảm giác đầu tiên là thích thú. Tháng 10, mùa mưa bão đã qua, mùa đông chưa tới, ban ngày nắng vàng như mật ong, buổi tối se se lạnh lúc bình minh. Mọi thứ đều rẻ và rất sẵn: Cam xã Đoài ngọt lịm chỉ 5 - 6 xu/1 quả, hồng trứng, hồng ngâm loại to (như hồng Đà Lạt bây giờ) cũng chỉ 5 - 6 xu/1 quả, trứng gà 3 xu/1 quả, trứng vịt lộn 7 xu/1 quả, phở 2 hào/1 bát... Trong khi đó lương tháng của tôi (cũng như anh Cương, anh Luyện...) là 74 đồng (1 đồng = 10 hào = 100 xu). Gạo chỉ 4 hào/1kg, trong mậu dịch cũng thế mà ở ngoài cũng thế, gạo ngoài lại càng ngon hơn. Còn nhà ở thì rất tuyệt: Tôi được phân một phòng trên đầu hồi gác 2 có ba mặt cửa trông xuống xóm dân cư (trong khi ở Cầu giấy tôi chỉ được 1 phòng 6m2 nhà tranh vách trát). Buổi chính ăn tại nhà ăn cán bộ, chỉ 3 hào/1 bữa nhưng thật ngon, thật rẻ và luôn thay đổi, có mấy chị miền Nam nấu nướng rất ngon. Bữa sáng chỉ 5 xu hay 1 hào xôi là thoải mái. Có một chuyện vui vui: Anh Chù là người rất nguyên tắc, ngay cả trong sinh hoạt riêng, buổi sáng mùa hè thì đúng 5 giờ 30, mùa đông thì đúng 6 giờ, anh cầm bát và 1 hào lẻ ra mua xôi, bà hàng xôi trước cổng cứ thế mà xới, không phải gói, không phải trả lại tiền lẻ, khi ngẩng lên thì anh đã quay lưng vào rồi, vì thế chúng tôi mới nói đùa là "anh mua xôi của cùng một người suốt 2 năm trời mà bà hàng xôi chưa bao giờ thấy mặt". Về công việc, tuy rằng đối với thầy giáo thì không phải làm theo giờ chính quyền, song thực tế chúng tôi đều làm việc cả 3 buổi: Buổi sáng và chiều nếu không lên lớp dạy thì đọc sách, sinh hoạt chuyên môn tại phòng làm việc (mỗi phòng 2 người), buổi tối đọc sách, đọc truyện tại phòng ở (mỗi người một phòng). Cuối buổi chiều mọi người đều ra chơi thể thao, chủ yếu là bóng chuyền. Ngoài việc chuẩn bị bài giảng, chúng tôi ra sức học. Lúc đầu mỗi môn mới chỉ có 1 người nên tự học, tự đọc, chẳng biết hỏi ai, trao đổi với ai. Từ năm thứ 2 và nhất là từ năm thứ 3 trở đi, sau khi số sinh viên tốt nghiệp khoá 1 được giữ lại trường khá đông, đã hình thành các hướng chuyên môn và chương trình bồi dưỡng. Khi đó thì hoặc chia nhau thuyết trình 01 cuốn sách, hoặc 1 cán bộ cũ hơn đọc và thuyết trình cho các cán bộ mới. Rất nhiều môn trong chương trình bồi dưỡng cán bộ hồi đó là những chuyên đề, thậm chí là giáo trình bắt buộc cho các năm cuối của hệ 04 năm hoặc trong chương trình cao học sau này. Cuộc sống lúc ấy thật ổn định và thích thú: chẳng phải lo ăn mặc, chẳng phải lo kiếm tiền, càng không phải lo làm giàu, đồng lương đủ sống, chỉ phải lo học thêm, lo phấn đấu, lo làm việc cho tốt. Về sinh viên thì cũng thật đặc biệt: Trong số 72 sinh viên Toán khoá đầu, có trên một chục anh là quân đội cử đi học (hình như đến khoá 2 mới có 1 anh thiếu uý) và cũng khoảng ngần ấy anh chị là giáo viên cấp 2 được cử đi học. Cho nên "trò già hơn thầy" là chuyện thường. Các anh cán bộ, bộ đội học hành rất chăm chỉ, nghiêm túc và rất gương mẫu trong sinh hoạt (có một số anh có lẽ hơi gia trưởng một chút). Tuy có những anh sinh viên nhiều hơn chúng tôi 4 - 5 tuổi song các anh xử sự rất đúng mực, lễ phép, thực lòng tôn trọng và biết ơn thầy giáo. Chúng tôi cũng tận tuỵ giảng dạy, phụ đạo vì các anh không có điều kiện học liên tục nên kiến thức bị hổng nhiều. Các buổi tối tôi đều sang ký túc xá sinh viên (nhà Dòng Nữ - nay là trụ sở Công đoàn Tỉnh), nhất là những buổi mà hôm sau có giờ Đại số, để chỉ dẫn, giải đáp thắc mắc cho từng nhóm, từng người. Có lẽ kỷ niệm sâu sắc nhất của thời kỳ đầu ấy là "tình người", đó là quan hệ thầy - trò, quan hệ trò - trò, quan hệ thầy - thầy, quan hệ giữa CBGD và nhân viên hành chính, phục vụ, quan hệ giữa tập thể và lãnh đạo... tất cả đều đẹp, trong sáng, "mình vì mọi người". Một phần do truyền thống Nghệ - Tĩnh, một phần do cơ cấu đội ngũ sinh viên và cán bộ, một phần do không khí chính trị thời đó, hồi bấy giờ, đang trong cao trào kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng (6/1/1930 - 6/1/1960, sau này mới đổi lại là 3/2), cả trường, cả thành phố sôi sục một không khí phấn đấu: mỗi người đều nghĩ xem mình có thể làm tốt hơn được việc gì, phải sống thế nào để xứng đáng. Cả thầy và trò đều tham gia mọi hoạt động xã hội sôi nổi, bình đẳng với tư cách là công dân, đoàn viên, đảng viên, không cách biệt, không lên gân, không cao đạo..., cùng đi biểu tình, cùng đi cổ động, cùng đi bán sách báo ngoài chợ Vinh, cùng mang kính hiển vi đi soi trứng giun sán trong nước bẩn trước công chúng để phổ biến khoa học. Ngay cả thầy Hiệu trưởng Nguyễn Thúc Hào cũng có hôm ra làm bảo vệ. Suốt cả hai năm học của khoá 1, tôi được phân công làm chủ nhiệm lớp. Bản thân tôi quan tâm đến lớp còn nhiều hơn đến gia đình, và ngược lại anh em sinh viên đối với tôi cũng thật thân thiết, tin cậy - nhất là các sinh viên mà học sinh phổ thông lên, dù trong lớp, trong tổ có nhiều bạn học đàn em nhưng họ vẫn tìm thấy ở các thầy trẻ những điều sâu sắc, hấp dẫn và mấy chục năm sau gặp lại nhiều anh vẫn nhắc lại những kỷ niệm nho nhỏ mà phải có tình cảm sâu đậm đến mức nào mới không bị chôn vùi trong bụi thời gian. Học kỳ 2 của năm đầu tôi ra Hà Nội để đọc sách (chính là lúc tôi cùng anh Vũ Tuấn soạn cuốn Bài tập Đại số cao cấp). Anh Trần Đức Mai (sau này là Giám đốc Sở Giáo dục Nghệ Tĩnh), lúc đó là lớp trưởng, hàng tháng vẫn viết thư báo cáo tình hình lớp với tôi và kể nhiều chuyện trong lớp rất thân thiết. Tình cờ vừa rồi tôi lục được trong chồng sách cũ một trong những bức thư đó. Thật cảm động và ngạc nhiên, mà chắc anh Mai cũng không ngờ rằng "thuở hàn vi" mình đẹp đến thế. Các sinh viên cũ khoá đầu sau khi ra trường vẫn thư từ đều đặn với tôi, có người kéo dài đến tận 10 năm, khi chiến tranh chống Mỹ ác liệt, liên lạc rất khó khăn. Rất tiếc là lúc bom Mỹ ném trúng nhà D khu nhà tầng của trường (phòng làm việc của tổ Đại số lại ở góc nhô của tầng 4 ngôi nhà đó), tất cả thư từ của tôi bị bung ra và gió của máy bay, của bom đã thổi dạt đi cả một vùng, chẳng thế nào thu lại được, song những tình cảm, những kỷ niệm đẹp thì chẳng có bom đạn nào xoá đi được.
          Tôi định viết nhiều nữa, vì còn rất nhiều kỷ niệm, nhiều chuyện vui vui (không phải để mà cười), nhưng như người ta thường nói, nếu "trời cho để sống và minh mẫn" thì đến dịp kỷ niệm 50 năm, 55 năm, tôi sẽ kể tiếp, viết tiếp, vì những chuyện cũ tuy đã là quá khứ song không phải chỉ là những kỷ niệm cá nhân mà cũng nhắn nhủ với các bạn trẻ với chúng ta một điều gì đó.
 
 
Nhớ lại những ngày tháng học tập và công tác ở khoa Văn - ĐHSP Vinh 
                                                                                                                                                    Phan Thiều
 
Sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi, để xây dựng lực lượng tiến lên chính quy, hiện đại, quân đội ta chủ trương tổ chức cho cán bộ, chiến sỹ nâng cao trình độ học vấn trang bị cho họ những kiến thức văn hoá phổ thông làm cơ sở để tiếp cận tri thức khoa học, kỹ thuật mà ngành quân sự đòi hỏi. Để mở các lớp bổ túc văn hóa từ Đại học trở lên, Tổng cục Chính trị tuyển chọn một số chiến sỹ đã học hết trung học về, cho ôn tập chương trình cấp 3 một thời gian rồi thi để gửi vào các trường ĐHSP, để chuẩn bị sau này về lại quân đội làm giáo viên tổ chức hoạt động bổ túc văn hoá nói trên. Tôi là một trong những người được tuyển chọn lúc ấy. Sau khi trúng tuyển (1960), tôi được sắp xếp về học khóa 2 khoa Văn - Sử, Trường ĐHSP Vinh, vừa mới thành lập năm 1959 (hồi ấy Khoa dạy 2 môn, mỗi khoá 2 năm).
Được ngồi trong giảng đường Đại học, lúc bấy giờ là một vinh dự to lớn, vượt quá ước mơ của mình. Hồi trước cách mạng, cứ nghĩ đến về sau lớn lên, mình sẽ làm nghề gì, tôi chỉ dám mong về sau sẽ học lấy cái bằng đíp-lôm (tương đương THCS ngày nay) để ra đời sẽ trở thành giáo viên tiểu học là cùng.
Một vấn đề đặt ra ngay từ đầu là: Vậy thì, học Đại học là như thế nào? So với tiểu học, Trung học, có gì khác không? Qua ý kiến của một số anh lớn tuổi, qua các giáo trình tiếp thu được các thầy trong khoa, các bài báo trên Tạp chí Văn học mà tôi đọc được, dần dần tôi vỡ lẽ ra là ở Đại học, cấp học bậc cao, người ta chú trọng đến những phát hiện mới, không cho phép người đọc chỉ lặp lại những kiến thức có sẵn mà yêu cầu sinh viên phát huy đầu óc sáng tạo, tìm ra những kết luận riêng của mình, tức là phải học tập theo kiểu NCKH.Từ đó, sau khi học, tôi vẫn thường xuyên suy nghĩ xem, bên cạnh những điều thầy giảng, có thể nghĩ thêm được điều gì nữa không? Có vấn đề gì có thể lật lại, nghĩ khác được không? Và tôi rất thích thú theo dõi các bài nghiên cứu trên tạp chí có các ý kiến tranh luận, dò theo những lý lẽ các tác giả bàn bạc, phân tích, phê phán quanh các nhận định khác nhau về cùng những tác phẩm, tác gỉa văn học như nhau.
Trong bài kiểm tra mình phải làm, tôi thường chú ý đến những ý kiến riêng, cố gắng phát triển, làm rõ thêm các kết luận được giáo trình của thầy đúc kết. Bài làm của tôi không cố gắng trình bày đầy đủ nội dung bài học mà thường nêu lên một vài ý, nhỏ thôi, đơn giản thôi, nhưng thể hiện một cách suy nghĩ riêng của mình, hợp lý, lôgic. Chính những điểm như thế đã được các thầy như thầy Nguyễn Khắc Phi, thầy Nguyễn Nguyên Trứ tán đồng, biểu dương.
Để đạt được các điểm cao trong bài làm, tôi còn phải tự mình xem có ưu điểm, nhược điểm gì cần chú ý để tính toán cách làm việc sao cho đạt hiệu quả tối ưu. Chẳng hạn, khi làm bài kiểm tra, tôi nghĩ rất kỹ rồi mới viết mà viết lại không nhanh, nên 1 bài kiểm tra 2 tiết thì chỉ viết được tối đa là 4 trang giấy manh. Trong đó, bạn bè có những người như anh Phan Nam Sinh thì viết những 8 trang, 10 trang ngon ơ. Trong tình hình đó, tôi phải nghiên cứu bài của mình sao cho thật cô đọng, "Nói ngắn mà ý phải dài", tránh được cái tội bài viết nội dung quá nghèo nàn. Đến lớp cuối khoá, tôi lại nghĩ mình quen viết ngắn rồi phải rèn luyện cho mình năng lực viết dài khi cần thiết. Đến khi làm luận văn tốt nghiệp có thời gian hàng tháng để tìm tòi, suy nghĩ và để viết ra giấy. Tôi lại nảy ra ý nghĩ, nhân đây, một công đôi việc, tôi sẽ cố gắng viết sao để có thể gửi bài của mình đăng tạp chí nữa, "biết đâu đó!"... Muốn đăng tạp chí khi làm khoá luận thì người học có quyền tự chọn, tự đề xuất đề tài mình phải tìm ra một đề tài sẽ đi vào những chỗ chưa mấy ai bàn, mình tránh được nguy cơ lặp lại những điều người khác đã nói. Hồi ấy(1962) nhà thơ Tố Hữu mới cho ra đời tập thơ "Gió lộng", tôi đọc vài ba lần cũng cảm thấy giọng điệu vừa hào sảng, hoành tráng, vừa đầy ắp những cảm thiết tha. Tôi bèn hướng trình bày cho được chủ đề "Sự kết hợp âm hưởng trữ tình với giọng điệu anh hùng ca trong tập thơ " Gió lộng". Về sau, tính toán lại sợ phạm vi quá rộng, tôi co lại đề tài khoá luận có phần đơn giản hơn - thành "Tính chất anh hung ca trong tập thơ "Gió lộng". Bài viết kéo dài được mươi lăm trang. Thầy Trần Văn Hối, cho điểm năm(thang điểm theo bậc). Xong rồi, tôi đánh liều chép bài gửi cho Tạp chí Văn học. Cũng to gan thật! Một việc làm hú hoạ, làm liều thế thôi! Vậy mà, đến khoảng mươi hôm sau thầy Lê Bá Hán đi Hà Nội về báo cho tôi biết Ban biên tập tạp chí gọi tôi ra gặp. Và sau khi tôi xem lại bài viết một tí, khoá luận của tôi đã được xuất hiện trên trang Tạp chí của Ngành. Như vậy, những tính toán ban đầu của tôi trong quá trình học tập ở Khoa đã được xác định là đúng đắn...
Sau khi tốt nghiệp ĐHSP Vinh, tôi được bên Giáo dục chấp nhận lời đề nghị của bên Quân đội cho tôi chuyển sang giảng dạy khoa Văn. Lúc ấy, thầy Lê Hoài Nam đang làm Chủ nhiệm khoa, xếp tôi vào tổ Văn học Việt Nam hiện đại. Tôi về nhà thấy cần phải cân nhắc kỹ lưỡng: Vào thời điểm như thế, chọn đi hướng nào có ý nghĩa quyết định đối với cả cuộc đời. Hồi ấy, Khoa chưa có cán bộ Ngôn ngữ học, phải nhờ thầy Vân Lang từ Hà Nội về dạy. Nghe lời anh em và bạn bè dạy Ngôn ngữ học ở Đại học Tổng Hợp, tôi xin được làm Ngôn ngữ học, một môn học còn rất mới ở nước ta. Được Khoa chấp nhận, tôi lao vào học tập để phụ trách mảng Ngữ pháp Tiếng Việt ở Khoa. Để chuẩn bị bài giảng, tôi phải thường xuyên đi Hà Nội, xin dự giờ dạy của thầy Nguyễn Tài Cẩn ở ĐH Tổng hợp, theo học kiên trì như một sinh viên thực thụ. Ngoài ra còn bám vào thư viện lớn nhất nước thời bấy giờ (Thư viện khoa học và thư viện Quốc gia Hà Nội) để đọc sách nghiên cứu thêm. Mặt khác, qua con đường tự học, cố hoàn thiện thêm chương trình tiếng Nga để đạt tới mức dùng đọc được quyển sách chuyên môn.
Trong quá trình tự lo cho mình một giáo trình để lên lớp, tôi còn phải nghĩ đến việc NCKH, một hoạt động quan trọng được nhà nước ấn định trong trách nhiệm của người cán bộ giảng dạy đại học.
Nhân có hôm anh em cán bộ trong khoa nói chuyện với nhau về kết quả học tập của sinh viên, người ta than phiền sinh viên ta viết chứ sai ngữ pháp nhiều quá, có người quay sang tôi hỏi: "Các cậu dạy ngữ pháp thế nào mà để cho học trò viết lách tồi như vậy". Như bị chạm tự ái, tôi cãi: "Đào tạo viết đúng ngữ pháp là công việc của trường phổ thông. Còn ngữ pháp dạy ở đại học là ngữ pháp lý luận, ngữ pháp khoa học. Sinh viên viết sai ngữ pháp đâu có là trách nhiệm của chúng tôi?".
Sau nghĩ lại thấy mình chối bỏ trách nhiệm hoàn toàn như thế thì cũng chưa hẳn là đúng. Phải chăng cách dạy tiếng Việt ở các lớp phổ thông chưa tốt, cần phải nghiên cứu cải tiến sao cho có hiệu quả tốt hơn? Và đây dứt khoát phải là nhiệm vụ của những người làm ngôn ngữ học chứ không phải là của ai khác. Tôi quyết định tới vấn đề "Phương pháp dùng tiếng Việt". Biết chuyện, có những cán bộ trong khoa, như thầy NTC phản ứng, bảo: "Các cậu vớ vẩn quá! Cứ xem trong chương trình chỉ có "Phương pháp dạy văn học" chứ làm gì có "Phương pháp dạy Tiếng Việt"! Tôi cãi, "Hiện nay thì chưa có nhưng rồi sau này sẽ có!". Rồi kiên quyết đi theo hướng mình lựa chọn.
Từ năm 1970, tôi đã có giáo trình chuyên đề về "Phương pháp dạy Tiếng Việt" giảng cho sinh viên cuối khoá trong Khoa. Từ năm 1972, các bài nghiên cứu của tôi theo hướng đó đã được đăng tải đều đặn trên các Tạp chí Ngôn Ngữ, Nghiên cứu giáo dục Đại học và THCN...
Trong hội nghị ngôn ngữ học ngành Đại học lần thứ I (TP Hồ Chí Minh 1/1978), báo cáo của tôi về "Phương pháp xây dựng môn phương pháp dạy Tiếng Việt" đã được nhiều người chú ý. Ở hội nghị Ngôn ngữ học lần thứ II (Huế, 1979), tôi đã tham luận đề xuất: "Trong chương trình Khoa Ngữ Văn - Đại học sư phạm cần có bộ môn Phương pháp dạy Tiếng Việt"
Vào ngày 30/2/1982, thông báo về hoạt động Hội đồng Đào tạo và các hội đồng bộ môn đại học sư pham số 149/ĐTBD của Bộ Đại học (Phần phụ lục: ý kiến của hội đồng Bộ môn Ngữ văn về một số vấn đề cải tiến nội dung đào tạo) đã ghi rõ: ở các trường Đại học sư phạm (Khoa Ngữ Văn) cần: "Bổ sung môn Phương pháp dạy Tiếng Việt để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của việc cải cách môn Ngữ Văn ở Nhà trường phổ thông trung học. Ngày nay, "Phương pháp dạy Tiếng Việt" đã trở thành một bộ môn chính thức quan trọng trong chương trình đào tạo của các khoa Ngữ văn trên cả nước.
Trong cuộc đời công tác của tôi, kể cả những năm học đại học, đã có 23 năm (1960 - 1983) trải qua ở khoa Văn - ĐHSP Vinh. Kiểm tra lại, những gì có thể gọi là sở đắc trong cuộc sống của tôi chủ yếu đều đạt tới trong sự đào tạo, giao lưu của thầy giáo, bạn bè đồng môn, đồng nghiệp ở khoa Ngữ văn chúng ta. Hôm nay, ở chặng cuối cuộc đời, ngồi ôn lại những dặm đường đã qua, tôi vẫn cảm nhận thấy khoa Ngữ Văn - ĐHSP Vinh, cái nôi đùm bọc, nuôi dưỡng tôi lớn lên trong nghề nghiệp, những ngày ấy là có ý nghĩa sâu sắc nhất.
 
 
 
 
Lưu luyến thuở ban đầu
                                                                                               Thanh Nhàn (ghi theo lời kể của thầy Nguyễn Quý Dy)
 
Tuy còn gọi là phân hiệu, nhưng ĐHSP Vinh ngày từ buổi sơ khai đã là một trường đại học độc lập, có vị trí riêng hấp dẫn của nó. Tôi là sinh viên khoá 1, thuộc Ban Toán - Lý do thầy Nguyễn Văn Chù làm chủ nhiệm, thời gian học trong 2 năm thì một năm ở khu trường Dòng (Bệnh viện thành phố Vinh hiện nay), năm còn lại chuyển sang khu nhà cấp 4 mới xây (Khu khoa Sinh cũ, nay thuộc Phường Hưng Bình).
Ban Toán - Lý khoá 1 có 77 sinh viên, số cán bộ giảng dạy ngoài giáo sư Nguyễn Thúc Hào làm Hiệu trưởng, thầy Chù chủ nhiệm khoa còn có các thầy Văn Như Cương, Hoàng Kỳ, Đào Luyện, Nguyễn Hữu Phúc (dạy tiếng Nga), Nguyễn Văn Bàng (dạy Giáo học pháp, về Ban vào cuối năm thứ nhất)... hồi bấy giờ, thầy trò đều ở ký túc xá, các thầy hầu hết còn trẻ, sống độc thân, nên quan hệ giữa người dạy và người học rất thân gần, hầu như không giữ kẽ điều gì mặc dầu cả hai bên luôn có ý thức tôn trọng nhau. Các thầy chăm chỉ đọc, tìm mượn tài liệu, tự học Ngoại ngữ để dịch sách, doạn giáo án, giáo trình. Tôi nhớ mãi hình ảnh thầy Chù, ngày nào cũng từ 4 giờ sáng đã dậy thắp đèn ngồi đọc sách. Các thầy Nguyễn Thúc Hào, Văn Như Cương, Hoàng Kỳ giảng dạy nhiệt tình, kiến thức sâu sắc, lại chu đáo với các em. Có thể nói ngay từ đầu năm các thầy giáo Ban Toán - Lý đã có sức hấp dẫn, vẫy gọi chúng tôi theo nghề sư phạm.
Sinh viên lớp chúng tôi học xem ra cũng "đa dạng", có học sinh phổ thông, có bộ đội phục viên chuyển ngành. Người quê gốc ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, người ngoài Bắc trong Nam có hết, nhiều lứa tuổi nhiều giọng nói, sự từng trải va vấp cũng khác nhau nên đâm ra cũng vui. Cái đáng nói là anh em cùng lớp luôn giúp đỡ nhau hết mực, cả trong học tập lẫn trong đời sống riêng tư làm cho chúng tôi cảm thấy ấm cúng như sống trong gia đình thân thích. Gương mẫu nhất, có lẽ là những sinh viên có tuổi đã trải qua quân ngũ. Có ai đó học yếu hơn tôi một chút thì đã có chúng tôi giúp sức. Trái lại, họ cũng nâng đỡ bày vẽ cho chúng tôi trước biết bao cái kém cõi của đời. Tôi nhớ mãi anh Nguyễn Lê Chúc, người ngoài Bắc xem tôi như em ruột. Biết tôi nhà nghèo, mồ côi nên những khi đói anh ấy mua cho ăn, rét thì lấy áo quần lính cho mặc. Sống gần gũi như vậy nhưng rất nghiêm. Ai thiếu sót điều gì được nhắc nhở ngay. Giờ tự học, chúng tôi kéo nhau lên lớp. Ban đêm học hăng, quá 10 giờ quy định anh em cờ đỏ ghi vào "nhắc nhở". Khẩu hiệu của chúng tôi: học bài nào xào bài ấy trước khi đi ngủ, còn chất vấn nhau bài vở, những bạn học lực non lớp chủ động phân công người giỏi phân công kèm cặp. Cũng xin nói thêm điều này nữa: thời bấy giờ ai được kết nạp vào Đoàn thanh niên là cả một sự kiện trong đời!
Do có thầy tốt trò chăm ngoan, bộ phận phụ trách hậu cần chăm lo chu đáo nên số sinh viên tốt nghiệp ra trường có thể nói là đáng phấn khởi. Nếu tôi nhớ không sai thì khoá 1 của khoa chỉ có 1 người chưa đậu tốt nghiệp ngay nhưng tất cả đều được "tung cánh muôn phương". Phần lớn được phân công đi dạy ở các tỉnh phía Bắc. Biết sự vất vả, thiếu thốn, nhất là thiếu thốn tình cảm, nhưng tất cả, kể cả những người quê ở Nghệ - Tĩnh đều đã lên đường, trong số đó nhiều người đã sinh cơ lập nghiệp ở ngoài Bắc. Qua những thông tin mà tôi nhận được thì hầu hết sinh viên khoá 1 chúng tôi đều đã trưởng thành có trường hợp trưởng thành vượt bậc.
Sẽ thiếu sót nếu tôi không kể đôi lời về một bộ phận sinh viên khoá đầu của Ban Toán - Lý sau khi tốt nghiệp xuất sắc được Trường Vinh giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Đó là các anh: Nguyễn Quốc Thi, Lê Thế Lân, Tạ Quang Hải, Nguyễn Mộng Hy, Trần Đức Mai, Trương Đức Hinh, Nguyễn Đình Nhân, Nguyễn Văn Ân và tôi nữa. Bấy giờ, Bộ Giáo dục yêu cầu Trường Vinh chọn một người đi ĐHSP Hà Nội. Khó quá. Vì đơn giản là ai cũng muốn ở lại với khoa, với Trường. Anh Trương Đức Hinh, ban đầu bị "điều đi", sau xin ở lại được. Cuối cùng, anh Nguyễn Văn Kiến buộc phải ra Hà Nội, với lý do quê anh ngoài Nam Định, Nam Định thì gần Hà Nội hơn... Vinh! nay anh Kiến vẫn công tác ở khoa Toán ở Trường ĐHSP Hà Nội I.
Gắn bó với một mái trường 40 năm nay, những lúc nhớ lại từ thuở ban đầu tôi không khỏi có chút tự hào. Có thể khẳng định rằng: 77 sinh viên tốt nghiệp khoá I năm ấy đến nay, trừ những ai đã mất số còn lại tất cả đều là những người cán bộ tốt và đáng tin cậy của nhân dân!
 
 
    Sinh viên sư phạm Vinh với Đồng bằng Sông Cửu Long  
Thạc sỹ Đặng Văn Thuận
Phó Chủ nhiệm khoa Sư phạm - Đại học Cần Thơ
nguyên sinh viên khoá 14
 
Cuộc gặp gỡ của cựu sinh viên Trường ĐHSP Vinh đang sống và làm việc tại đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức đúng vào ngày đầu năm mới năm 1997. Đây là lần đầu tiên các thế hệ thầy giáo, sinh viên Trường ĐHSP Vinh từ khoá 2 đến khoá 25 của Trường ĐHSP Vinh từ mọi vùng của đồng bằng sông Cửu Long tụ hội về thành phố Cần Thơ họp mặt khá đông đủ.
Dự buổi họp mặt hôm nay, mọi người rất cảm động vì sự có mặt của một số thầy giáo đã giảng dạy tại Trường ĐHSP Vinh. Những người thầy đã gắn bó với Trường Vinh "với mảnh đất gió Lào nung cát bỏng, núi non trùng điệp, lắm bão nhiều mưa". Những người đã chịu nhiều khó khăn, vất vả, nhưng đã vượt lên, dồn hết tâm sức, đào tạo biết bao thế hệ sinh viên. Trong buổi họp mặt còn có các bạn cựu học sinh này còn có các bạn cựu học sinh khối phổ thông chuyên Toán.
Cuộc gặp mặt này là sự hội tụ của các thế hệ: thầy, trò, già, trẻ. Tuy tuổi tác và cương vị khác nhau nhưng đều có chung một niềm tự hào là đã từng sống, học tập và công tác tại Trường ĐHSP Vinh. Từ ngôi trường ấy ra đi.
Mọi người bồi hồi nhớ về Trường ĐH Vinh. Một Trung tâm đào tạo giáo viên cho cả nước, được thành lập từ năm 1959, đến nay đã 45 năm xây dựng và phát triển. Chặng đường đường đã qua của trường đầy thử thách gian nan, nhất là những năm sơ tán, chín lần di chuyển địa điểm... thầy và trò ĐH Vinh có quyền tự hào về quá khứ vẻ vang của mình, với những đóng góp xuất sắc cho ngành giáo dục, cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và xây dựng Tổ quốc. Trên 100 cán bộ, giáo viên của trường đã được cử đi chi viện, tăng cường cho các trường ĐHSP, CĐSP chủ yếu ở phía Nam. Sinh viên tốt nghiệp của trường hiện đang công tác trên khắp mọi miền đất nước (trong đó trên 700 người công tác ở các tỉnh phía Nam, 250 người làm việc tại các tỉnh phía Bắc), (theo số liệu của Trường ĐHSP Vinh tháng 7 năm 1993).
Tại đồng bằng sông Cửu Long, số thầy giáo, học sinh, sinh viên của trường hiện đang công tác ở đây rất đông. Sinh viên thuộc hầu hết các khoá học của ĐHSP Vinh đều có mặt ở đây. Đầu tiên là những anh, chị khoá trước theo con đường "đi B" vào Nam chiến đấu. Sau ngày giải phóng miền Nam các thầy, cô giáo và các sinh viên chi viện cho miền Nam ngày càng nhiều hơn, nhất là từ khoá 14 đến khoá 22, có những đoàn tàu chỉ dành riêng cho sinh viên tốt nghiệp vào Nam công tác.
Chúng tôi chưa nắm hết được đầy đủ số anh, chị em sinh viên Trường Vinh vào công tác ở đồng bằng sông Cửu Long. Sơ bộ chúng tôi mới biết được 300 người trong đó: khoa Toán có 110, khoa Lý có 45, khoa Hoá 25, khoa Văn 86, khoa Sinh 20, khoa Sử, Chính trị 14.
Ngoài ra còn có các cựu học sinh chuyên Toán, (không chỉ là sinh viên Trường ĐHSP Vinh) đang công tác tại đồng bằng sông Cửu Long. Trong số các anh chị kể trên, có rất nhiều người đã phấn đấu, trưởng thành và giữ các chức vụ quản lý chủ chốt trong ngành giáo dục như: Giám đốc, Phó Giám đốc Sở, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường CĐSP, THSP, PTTH, Trưởng, Phó trưởng phòng giáo dục...
Ở tất cả các trường chuyên của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đều có mặt anh chị em giáo viên là cựu sinh viên Trường ĐHSP Vinh và đã góp phần rèn luyện cho các em học sinh đạt được nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi trong nước và Quốc tế.
Trong những vùng sâu, xa nhất của đồng bằng sông Cửu Long, anh chị em cựu sinh viên Trường Vinh cũng đều có mặt.
Xa quê hương, xa gia đình biết bao khó khăn, nhất là những ngày đầu mới ra trường nhận công tác. Nhưng anh chị em đã phấn đấu vươn lên và đã coi đồng bằng sông Cửu Long là quê hương thứ 2 của mình.
Với số lượng đông đảo, lại có một trình độ nghiệp vụ cao, cộng thêm lòng yêu nghề mến trẻ, lòng nhiệt tình công tác, chắc chắn rằng các cự sinh viên Trường ĐHSP Vinh ở đây sẽ có nhiều đóng góp hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đồng bằng sông Cửu Long.
 
 
                                       Dân sư phạm Vinh ở Hà Nội
                                                                                                                                           PGS.TS. Văn Như Cương
 
Dân sư phạm Vinh ở Hà Nội rất đông. Chưa thống kê được đầy đủ, nhưng chắc chắn là có thể lập thành một trường ĐHSP với đội ngũ cán bộ khá là "siêu". Nếu nó được thành lập, có thể sắp xếp khung cán bộ như sau (tạm căn cứ theo chức vụ cũ, nếu không có thì bổ nhiệm người mới theo tiêu chuẩn: hồng thắm, chuyên sâu):
Hiệu trưởng: Nguyễn Thúc Hào, Hiệu phó: Phạm Quý Tư, Bí thư Đảng uỷ: Nguyễn Chí Linh, Phó bí thư Đảng uỷ: Phạm Hạo. Ban chủ nhiệm khoa Văn: Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đăng Mạnh, Phùng Văn Tửu. Ban chủ nhiệm khoa Toán: Nguyễn Văn Bàng, Nguyễn Đình Nhân, Hoàng Kỳ. Ban chủ nhiệm khoa Sinh: Hoàng Ngọc Bạt... Ban chủ nhiệm khoa Hoá: Hoàng Minh Châu, Trần Hữu Nhụy...
Đó là nói về cựu cán bộ, còn cựu sinh viên cũng rất đông, đặc biệt là cựu học sinh chuyên Toán.
Vì số lượng đông như thế nên một lẽ tự nhiên là người ta tìm đến nhau, và mong muốn có một hình thức sinh hoạt chung nào đó.
Đầu tiên là "Hội học sinh cũ của các lớp chuyên Toán sư phạm Vinh" được thành lập, và sinh hoạt đều đặn, một năm một lần Đại hội toàn thể vào dịp 20/11. Từ "sinh hoạt" ở đây được hiểu theo nghĩa "ăn tiệc và nói chuyện". Cầm đầu Hội này hiện nay là Hoàng Anh Tuấn, Giám đốc một cơ quan nào đó của Nhà nước. Số hội viên gồm hơn 100 người.
Sau đó một thời gian, một số anh em gặp nhau, thành lập ra một tổ chức có cái tên rất dài: "Ban liên lạc cán bộ, sinh viên cũ của ĐHSP Vinh đang sống ở Hà Nội". Ban này do Văn Như Cương và Nguyễn Khắc Phi làm đồng trưởng Ban. Ban hội họp mỗi khi có chuyện cần bàn và cần làm. Chẳng hạn, Ban đã tổ chức 2 lần sinh nhật thầy Nguyễn Thúc Hào vào dịp thầy 70 và 80 tuổi. Ban này còn quyết định giao cho Văn Như Cương làm một cuốn phim về thầy Hào, cuốn phim được trình chiếu nhiều lần trên vô tuyến Trung ương. Ngoài ra Ban còn thay mặt anh em tham dự các cuộc hiếu, hỉ...
                                                                                                                          Đoàn Minh - TTPVSV