Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới đã yêu cầu ngành giáo dục phải “đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. Công nghệ thông tin chính là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục nhằm nâng cao chất lượng phát triển giáo dục. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chọn năm học 2008-2009 làm năm học ứng dụng công nghệ thông tin nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục theo định hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”.

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - HỌC

Bill Gates, ông chủ tập đoàn Microsoft, đã khẳng định: “Một trong những điều kỳ diệu nhất trong 20 năm trở lại đây là sự xuất hiện của Internet. Chính Internet đã làm cho thế giới trở nên rất nhỏ, khoảng cách địa lý đã bị san phẳng… Một điều tuyệt vời khác là ngày càng có nhiều trường đại học trên thế giới đưa bài giảng lên Internet. Bạn có thể ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới để chọn bài giảng, chủ đề…, thậm chí là những giáo sư danh tiếng để học tập mà không phải trả tiền. Đây sẽ là một sự thay đổi gốc rễ hệ thống giáo dục trong thời gian tới”. Với tác động của công nghệ thông tin, môi trường dạy học cũng thay đổi, nó tác động mạnh mẽ tới quá trình quản lý, giảng dạy, đào tạo và học tập dựa trên sự hỗ trợ của các phần mềm ứng dụng, website và hạ tầng công nghệ thông tin đi kèm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy - học sẽ góp phần nâng cao chất lượng học tập cho sinh viên, tạo ra môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không chỉ đơn thuần là thầy giảng, trò nghe, thầy đọc, trò chép như hiện nay, sinh viên được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học. Nhờ vậy, chúng ta sẽ đào tạo ra một đội ngũ trí thức đủ năng lực thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Hiện nay, các trường đại học, cao đẳng đã và đang chuyển dần sang phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Đặc điểm của đào tạo theo hệ thống tín chỉ là giảm đáng kể giờ lên lớp lý thuyết và tăng số giờ thảo luận, thí nghiệm, thực hành. Giờ tự học của sinh viên tăng gấp đôi so với đào tạo theo niên chế (1/1 trong đào tạo theo niên chế và 2/1 trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ). Điều này không phải là cắt xén nội dung của chương trình đào tạo, mà chuyển việc thực hiện các nội dung của chương trình đào tạo sang hướng tích cực, chủ động về phía sinh viên. Triển khai tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy - học; đó là chuyển từ cách dạy truyền thống thầy đọc - trò chép sang tích cực hoá quá trình dạy học, trong đó giảng viên phải truyền đạt được những kiến thức cốt lõi của học phần và hướng dẫn cho sinh viên phương pháp tự học. Do vậy, công nghệ thông tin sẽ mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy, học cho sinh viên. Những phương pháp dạy, học tích cực thường dùng như phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học kiến tạo, phương pháp hướng dẫn sinh viên tự học… càng có điều kiện để áp dụng. Các hình thức dạy học như dạy học tập thể, dạy học cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin. Sinh viên có thể tự làm việc với máy vi tính, tự tra cứu thông tin trên mạng. Nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin mà giảng viên và sinh viên có thể tự sử dụng nhiều phần mềm phục vụ cho quá trình giảng dạy và học tập. Nhờ có máy tính mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống. Việc sử dụng bài giảng điện tử với những hình ảnh, âm thanh sinh động làm cho người học dễ dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và tăng hứng thú học tập của sinh viên. Thông qua bài giảng điện tử, giảng viên có nhiều thời lượng để đặt các câu hỏi gợi mở, tạo điều kiện cho sinh viên hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Đó là những tiền đề thuận lợi để sau khi ra trường, sinh viên sẽ tiếp thu và vận dụng sáng tạo những thành tựu của công nghệ thông tin trong quá trình dạy học của mình.

II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY - HỌC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

            Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo hiện nay đang ở những bước khởi đầu. Phương tiện dạy học đối với hầu hết các giảng viên chỉ là cuốn giáo trình, chiếc micro và viên phấn trắng. Thỉnh thoảng mới có giảng viên sử dụng đồ dùng dạy học nhưng cũng chủ yếu là ở những tiết đánh giá hay thao giảng. Việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông như một công cụ dạy học, hỗ trợ quá trình dạy và học mới ở mức sử dụng các phương tiện nghe, nhìn như xem băng, đĩa hình các tiết dạy minh họa hoặc tư liệu hình ảnh. Một số giờ dạy bước đầu có sử dụng giáo án điện tử. Tỷ lệ giảng viên và sinh viên các trường đại học, cao đẳng dùng máy ví tính truy cập mạng Internet để tìm kiếm thông tin còn ít.

            Sở dĩ những thành tựu về công nghệ thông tin chưa được ứng dụng nhiều trong quá trình dạy - học cho sinh viên là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây. Trước hết là do phần lớn giảng viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều. Khi tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, không ít giảng viên lo lắng, băn khoăn như khi áp dụng những phương pháp mới có thể không thành công bằng phương pháp thuyết giảng; sợ nêu nhiều câu hỏi cho sinh viên trả lời sẽ không đủ thời gian thực hiện kế hoạch giảng dạy, ngại cho sinh viên thảo luận, đối thoại những vấn đề “nhạy cảm” hoặc quá khó; một số giảng viên trẻ ngại bị đồng nghiệp đánh giá chưa đúng về mình, họ rất muốn áp dụng phương pháp dạy học mới nhưng ngại những giảng viên “cây đa”, “cây đề” vẫn dạy theo phương pháp truyền thống cho rằng mình “cầm đèn chạy trước ô tô”. Khá nhiều cán bộ giảng dạy quan niệm không cần phải thay đổi phương pháp dạy học vì đã vào “biên chế nhà nước” là yên tâm làm việc đến lúc về hưu. Với những trạng thái tâm lý nói trên, một bộ phận giảng viên đã áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết của mình tới người học. Giảng viên là người độc thoại không quan tâm đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của sinh viên cũng như việc chỉ ra cho người học con đường tích cực chủ động thu nhận kiến thức. Nhiều giờ dạy được giảng viên tiến hành như một giờ diễn thuyết, thậm chí giảng viên còn đọc chậm cho sinh viên chép lại những gì có sẵn ở giáo án. Vì vậy, nhiều cán bộ giảng dạy không quan tâm đến việc ứng dụng công nghệ thông tin; chưa đầu tư suy nghĩ nhiều về cách thức sử dụng phương tiện dạy học; chưa chịu khó sưu tầm và tự tạo ra các thiết bị dạy học phù hợp. Điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy học vẫn chưa phát huy hiệu quả. Còn về phía sinh viên, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giảng viên đã giảng, chỉ biết những kiến thức mà giáo viên đã cung cấp. Đa phần sinh viên chưa có thói quen chủ động tra cứu thông tin trên mạng Internet. Bên cạnh đó, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt là các phòng học đa phương tiện, các thiết bị nghe, nhìn để minh họa cho bài giảng của giảng viên đã khiến cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học gặp nhiều bất lợi, dẫn đến tình trạng dạy chay, học chay. Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để, sử dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền chậm.

            Qua phân tích ở trên, chúng ta đã phần nào có được một cái nhìn tổng quát về thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy - học cho sinh viên hiện nay. Từ đó tìm ra những hình thức ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp trong quá trình dạy - học ở nhà trường nhằm đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của người học. Nhờ vậy, cán bộ giảng dạy sẽ không còn lúng túng trong quá trình soạn giáo án và giảng dạy, hướng dẫn sinh viên học tập đem lại hiệu quả cao nhất cho giờ giảng. Đúng như Luật Giáo dục đã quy định “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.

III. MỘT SỐ HÌNH THỨC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY - HỌC CHO SINH VIÊN

1. Giảng dạy bằng bài giảng điện tử

        Giảng dạy bằng bài giảng điện tử theo công nghệ e Learning có ưu điểm là tạo hứng thú cho cả thầy và trò trong buổi học nhờ có sự truyền đạt và tiếp nhận bài giảng thông qua những hình thức phong phú, đa dạng như hình ảnh, âm thanh giúp cho sinh viên tiếp nhận bài giảng dễ hiểu hơn. Giảng viên không lo “cháy” giáo án vì thời gian được kiểm soát bằng máy. Giảng viên được giảm nhẹ việc thuyết giảng, có điều kiện trao đổi, thảo luận với sinh viên về những vấn đề nảy sinh. Qua đó, sinh viên được kích thích khám phá tri thức qua thông tin thu nhận được, có thể nêu câu hỏi với giảng viên, giúp cho giờ học thêm sinh động. Giảng viên không phải soạn bài giảng nhiều lần mà chỉ cần đầu tư cho lần soạn đầu tiên và cập nhật, chỉnh sửa cho bài giảng tốt hơn vào những lần sau.

          Tuy nhiên, việc dạy và học bằng bài giảng điện tử cũng có những hạn chế nhất định. Nếu tập trung vào thảo luận các vấn đề liên quan đến bài học, sinh viên sẽ không có nhiều thời gian cho việc thực hành, vì vậy đòi hỏi giáo viên phải phân bố thời gian hợp lý. Trên thực tế, việc dạy - học bằng bài giảng điện tử không thể áp dụng với tất cả các nội dung của từng bài học, có những tiết dạy sẽ không thể đạt hiệu quả tối đa nếu thiếu phương pháp dạy truyền thống, có những tiết học sẽ không giúp sinh viên hiểu và nhớ lâu nếu không được hỗ trợ bằng hình ảnh, âm thanh, vì vậy giảng viên cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp giảng dạy bằng bài giảng điện tử và cách dạy truyền thống để có thể phát huy tối đa hiệu quả của việc dạy và học.

        Muốn có một tiết dạy với bài giảng điện tử theo công nghệ e Learning có hiệu quả, người thầy giáo phải dành nhiều thời gian cho việc sưu tầm, chuẩn bị chu đáo về tài liệu, kiến thức để có được những hình ảnh minh hoạ, âm thanh phục vụ cho bài giảng. Giáo viên phải biết sử dụng thành thạo máy tính và một số phần mềm hỗ trợ cho việc soạn bài giảng điện tử như PowerPoint, AutoCad… Giáo viên có thể tham khảo cách soạn giáo án điện tử trên một số trang web như: http://www.thuvienkhoahoc.com; http://el.edu.net.vn...
2. Tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin trên mạng Internet
          Ngày nay, cán bộ giảng dạy và sinh viên phải có thói quen và khả năng tự học để bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tích luỹ kiến thức. Tuy nhiên, người dạy và người học thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin do các thư viên truyền thống chưa đáp ứng đủ nhu cầu học hỏi, tìm hiểu và nghiên cứu của họ. Vì vậy, Internet và máy vi tính chính là một phương tiện giúp mỗi người tự học tốt nhất. Giáo viên và sinh viên có thể tìm kiếm, tra cứu tri thức về mọi lĩnh vực. Hiện nay, có hai cách để tìm kiếm các thông tin trên mạng Internet: tìm kiếm tĩnh và tìm kiếm động. Tìm kiếm tĩnh là sử dụng danh bạ website. Chỉ cần gõ chính xác địa chỉ website là người dùng có thể truy cập vào trang thông tin điện tử để khai thác thông tin. Tìm kiếm động là tìm kiếm trực tuyến, cách này sử dụng những địa chỉ website là công cụ tìm kiếm (Search Engine). Các website tìm kiếm hữu hiệu nhất hiện nay là các trang: http://www.google.com.vn, http://www.yahoo.com, http://www.vinaseek.vn, http://www.altavista.com, http://www.hotbot.com, http://www.snap.com... Từ cửa sổ của các trang web đó, người truy cập chỉ cần gõ trực tiếp những từ hoặc cụm từ cần tìm và gõ phím Enter, các trang chủ sẽ kết nối (link) đến các địa chỉ chứa những từ hoặc cụm từ người sử dụng cần tìm. Khi đó giáo viên và sinh viên có thể in trực tiếp hoặc lưu trữ bằng cách down load các tài liệu liên quan.
3. Tham khảo sách điện tử, giáo trình điện tử
          Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tăng cường hoạt động tự học, tự nghiên cứu là vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi nhà giáo và sinh viên. Để tăng cường tính chất nghiên cứu, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của sinh viên, người dạy, với tư cách là người hướng dẫn quá trình cần phải chỉ ra cho sinh viên cách tìm kiếm, khai thác những nguồn học liệu mở trên mạng công nghệ thông tin toàn cầu. Hiện nay, phần lớn các thư viện, nhà xuất bản, viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng trong nước và nước ngoài đều có trang web riêng. Trên các trang web đó có đăng tải các công trình nghiên cứu khoa học, các cuốn sách và giáo trình điện tử. Có thể nói, với sách điện tử và giáo trình trên mạng Internet, mỗi giảng viên và sinh viên có thể tham khảo hàng trăm, hàng nghìn cuốn sách và bài giảng khác nhau ở bất cứ thời gian và không gian nào. Mỗi người có thể tìm cuốn sách và giáo trình mình cần một nhanh chóng, có thể tham gia diễn đàn và trao đổi những suy nghĩ của mình về một cuốn sách hay một vấn đề quan tâm, có thể viết lại ghi nhớ, đánh dấu những thông tin quan trọng của cuốn sách, có thể chuyển từ trang sách này sang trang sách khác một cách đơn giản. Một số địa chỉ thông dụng để giáo viên và học sinh có thể truy cập tìm sách và giáo trình phục vụ việc dạy - học là: http://www.nlv.gov.vn (trang web của Thư viện Quốc gia); http://www.thuvien.net (mạng thư viện Việt Nam); http://www.saharavn.com (siêu thị sách trực tuyến lớn nhất Việt Nam); http://www.docsach.dec.vn (thư viện trực tuyến để đọc và dowload hàng ngàn đầu sách miễn phí); http://worldebookfair.com (một trong những thư viện điện tử lớn nhất thế giới với trên 330.000 đầu sách, 100 ngôn ngữ); http://www.thuvien-ebook.com; http://www.vietnamwebsite.net/ebook; http://www.ebook.moet.gov.vn;  (Thư viện giáo trình điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo), http://www.giaovien.net; http://www.teachers.net; http://ctu.edu.vn (website của Trường Đại học Cần Thơ) http://www.agu.edu.vn (website Trường Đại học An Giang); http://www.vnuhcm.edu.vn (website của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; http://www.vnu.edu.vn (website của Đại học Quốc gia Hà Nội)… Đây là những điểm truy cập tập trung các thông tin về giáo trình, nội dung tham khảo, các nguồn học liệu. Tại các website này, giảng viên và sinh viên có thể tìm kiếm trực tuyến kho giáo trình ở các trình độ. Ở các trang web này có hầu hết các giáo trình quy định trong chương trình đào tạo. Trong mỗi giáo trình, các tác giả đã giới thiệu đề cương bài giảng của mình, trình bày những ý tưởng và cách thức tổ chức bài học. Cùng một nội dung bài học quy định trong chương trình và giáo trình nhưng có rất nhiều cách khai thác và tổ chức bài học khác nhau. Mỗi giáo trình thường có hai phần. Phần đầu giới thiệu một số thông tin cần thiết và bắt buộc như: tên học phần và trình độ; người soạn (bao gồm họ tên, chức danh và địa chỉ e mail); địa chỉ nơi người soạn công tác; tài liệu học tập và giảng dạy (ghi những tài liệu tham khảo, phương tiện dạy học, các trích đoạn băng hình và tiếng, các phần mềm dùng cho việc học, làm bài tập, nghiên cứu); khối lượng và cấu trúc học phần (nêu rõ số đơn vị học trình, số tiết lý thuyết, số tiết thực hành); các khái niệm dạy học (nêu các khái niệm cơ bản sẽ đề cập và trình bày trong bài giảng). Phần hai: nêu nội dung bài giảng. Độ ngắn, dài, khái quát hay chi tiết của phần này phụ thuộc vào sự trình bày của người soạn.
 4. Sử dụng các thiết bị điện tử vào quá trình dạy học
             Quá trình dạy - học cho sinh viên cần đẩy mạnh sử dụng các thiết bị nghe nhìn để tăng hiệu quả tiếp thu, ghi nhớ bài giảng của sinh viên, giảm bớt việc ghi, đọc, chép của giảng viên và học viên. Các nghiên cứu giáo dục cho thấy người học chỉ nhớ được 10% những gì đã đọc, 20% những gì đã nghe và khoảng 50% những gì họ nghe và thấy. Một số thiết bị nghe thường dùng trong nhà trường là máy ghi âm (cassette) + băng từ, máy ghi âm kỹ thuật số; các thiết bị nhìn như máy đèn chiếu (slide projector) + phim dương bản, máy phóng hình (overhead projector) + phim (film) A4, máy chiếu vật thể (visual projector) + phim A4 hoặc vật thể, máy chiếu phim dương bản 35mm (hành động) + phim nhựa; các phương tiện nghe nhìn như máy chiếu phim video, băng từ + Ti vi (television), đầu đĩa VCD, DVD + các loại CD room + Ti vi, máy chiếu đa chức năng (multimedia projector)… Sinh viên được học tập thường xuyên trong môi trường có các thiết bị điện tử sẽ luôn tăng hứng thú học tập, phát huy khả năng tư duy sáng tạo. Phương pháp dạy và học có sự tham gia nhiều hơn của sinh viên bằng thảo luận nhóm, nêu ý kiến sẽ phát huy nhiều hơn tính chủ động trong tiếp nhận kiến thức. Cùng một thời lượng như nhau, nhưng số lượng kiến thức và kỹ năng sinh viên thu nhận lại nhiều hơn, cụ thể, sinh động, sâu sắc hơn. Số lượng bài tập thực hành của sinh viên cũng được rèn luyện nhiều hơn. Từ đó, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu sẽ phát huy có hiệu quả cao hơn.
5. Gửi, nhận văn bản bằng thư điện tử
         Thư điện tử hay e mail (electronic mail) là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy tính. Một e mail có thể được gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính, đặc biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông tin (bằng chữ, hình ảnh, âm thanh, phim) từ một máy chủ tới một hay rất nhiều máy nhận trong cùng một thời điểm. Điều này rất cần thiết trong việc trao đổi, liên lạc giữa cán bộ giảng dạy và sinh viên. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng hệ thống e mail có tên miền @moet.edu.vn trên nền gmail để cung cấp cho các đơn vị, cơ sở giáo dục trong cả nước sử dụng thống nhất. Hệ thống e mail @moet.edu.vn được sử dụng trên nền gmail có khá nhiều ưu điểm: có thể truy cập ở mọi nơi, mọi lúc bằng chương trình duyệt web (như Firefox, Internet Explore) với địa chỉ http://mail.moet.edu.vn; có thể tải e mail về máy bàn để dùng trên Outlook với giao thức POP3, nghĩa là có thể dùng ngay Outlook để xem e mail này; có thể gửi e mail cho một nhóm đối tượng người sử dụng, như gửi e mail cho toàn thể sinh viên của lớp, của khoa… Với hệ thống e mail này, giảng viên có thể cung cấp cho sinh viên những tài liệu mình có bằng cách gửi qua e mail. Ngược lại, sinh viên nếu tìm được những tài liệu có giá trị thì cũng có thể chuyển cho thầy, cô giáo của mình. Mỗi khi sinh viên làm tiểu luận, viết bài báo… thì có thể gửi qua e mail để giảng viên góp ý, sửa chữa trực tiếp trên máy tính. Một ưu điểm nữa là sinh viên có thể viết thư điện tử xin phép các nhà khoa học, các nhà giáo để download các bài báo, các cuốn sách phục vụ cho việc học tập của bản thân.
             Nói tóm lại, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy - học cho sinh viên chính là một trong những hoạt động để đổi mới phương pháp dạy - học, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo trong thời kỳ hội nhập, tạo thuận lợi cho người học có thể tích luỹ dần kiến thức theo khả năng và điều kiện của mình. Dưới tác động của công nghệ thông tin, quá trình kỹ thuật hoá hoạt động giảng dạy trong nhà trường đã diễn ra và có những kết quả đáng chú ý. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một công việc lâu dài, khó khăn, đòi hỏi nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính, năng lực của đội ngũ giảng viên. Trong bài viết này, chúng tôi mới trình bày một số hình thức của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy - học cho sinh viên. Vì vậy, chúng tôi mong rằng sẽ có những công trình tiếp theo nghiên cứu vấn đề một cách toàn diện hơn để góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động dạy - học cho sinh viên.

Nguyễn Quang Tuấn