TS. Đinh Đức Tài
Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế
Tuy nhiên, hiện nay khi xếp hạng
(một cách tương đối chính xác) chất lượng các bài báo, các tạp chí khoa học và uy
tín nhà nghiên cứu, trên thế giới người ta thường dựa vào 3 thông tin cơ bản đó
là: số lần trích dẫn (citation index) bài báo, chỉ số ảnh hưởng IF (Impact
Factor) của tạp chí và chỉ số H (H-index) của các nhà nghiên cứu.
Chỉ
số trích dẫn của một
ấn phẩm khoa học do Eugene Garfield đề xuất năm 1955, là số lần kết quả nghiên
cứu công bố trong ấn phẩm này được sử dụng để tham khảo, trích dẫn trong ấn
phẩm khác [2]. Chỉ số trích dẫn được dùng làm một độ đo quan trọng để đánh giá
chất lượng các công trình nghiên cứu, là cơ sở để định nghĩa các độ đo khác cho
các tạp chí khoa học và nhà khoa học. Tuy nhiên, chỉ số trích dẫn chỉ có ý
nghĩa so sánh trong từng ngành khoa học cụ thể. Kết quả nghiên cứu trong [1]
cho thấy, các bài báo thuộc các ngành khoa học về sự sống (life sciences) như
sinh học phân tử và tế bào, y sinh học,… có trung bình khoảng 6 lần trích dẫn.
Trong khi đó đối với các bài báo thuộc các ngành vật lý và hóa học có trung
bình khoảng 3 lần trích dẫn, thậm chí trong toán học, tin học và khoa học xã
hội trung bình chỉ khoảng 1 lần trích dẫn.
Chỉ
số ảnh hưởng (IF)
của một tạp chí tại năm hiện tại là số lần trích dẫn hay tham khảo trung bình
các bài báo mà tạp chí đã công bố hai năm trước và được xác định như sau:
IF của tạp chí J trong năm Y = n/p
Trong đó:
n là tổng số lần trích dẫn của tất cả
các kết quả nghiên cứu được công bố trong tạp chí J trong 2 năm trước năm Y
(tức là năm Y-1, Y-2) đã được đưa vào sử dụng để tham khảo, trích dẫn trong các
bài đăng trên J và các ấn phẩm khoa học khác được xuất bản trong năm Y;
p là tổng số các bài báo đăng trên tạp
chí J trong hai năm Y-1 và Y-2.
Ví dụ: Nếu trong hai năm 2013 và 2014
Tạp chí Khoa học Đại học Vinh công bố tất cả 100 bài báo. Trong năm 2015, từ
100 bài báo này có 150 lần các kết quả nghiên cứu của 100 bài này được trích
dẫn trong tất cả các bài viết ở các tạp chí hoặc các ấn phẩm xuất bản khác. Khi
đó chỉ số ảnh hưởng (IF) của Tạp chí Khoa học Đại học Vinh trong năm 2015 là
150/100 = 1.5.
Với định nghĩa như trên, chỉ số ảnh
hưởng IF của các tạp chí thường thay đổi theo năm. Ví dụ, chỉ số ảnh hưởng IF
của tạp chí Bioinformatics năm 2008 là: 4.328; năm 2007 là: 4.894; năm 2004 là
5.742; năm 2003 là 6.701; năm 2002 là 4.615; năm 2001 là 3.421. Như vậy, những
công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí có hệ số ảnh hưởng cao, ví dụ
như Science, Nature, ..., thường có chất lượng khoa học rất cao. Cũng tương tự
chỉ số trích dẫn, chỉ số ảnh hưởng của tạp chí phụ thuộc vào các ngành khoa học
khác nhau.
Theo định nghĩa, chỉ số trích dẫn
được dùng để “đo” chất lượng công trình công bố và chỉ số ảnh hưởng IF dùng để
“đo” chất lượng của các tạp chí. Vậy để đo năng lực nghiên cứu, sự đóng góp,
tầm ảnh hưởng của một nhà khoa học thì sao? Để giải đáp vấn đề này năm 2005,
nhà vật lý người Mỹ Jorge Hirsch (Đại học California ở San Diego) đã đưa ra
khái niệm chỉ số H (H-index) nhằm để
đánh giá các kết quả nghiên cứu khoa học và làm cơ sở so sánh sự đóng góp giữa
các nhà khoa học khác nhau trong cùng lĩnh vực nghiên cứu. Theo Jorge Hirsch, một
nhà khoa học có chỉ số H bằng A nếu
trong số N công trình của ông ta có A công trình khoa học (A < N) có số lần
trích dẫn của mỗi bài đạt từ A trở lên. Như vậy, chỉ số H chứa đựng được cả hai
thông tin: số lượng các bài báo được công bố và chất lượng, tầm ảnh hưởng của
hoạt động khoa học của cá nhân (thông qua số lần được các nhà khoa học khác
trích dẫn).
Ví dụ: Nếu một nhà khoa học đã công
bố được 40 bài báo. Trong đó có 7 bài,
mỗi bài có nhiều hơn 10 trích dẫn; 13 bài mỗi bài có 10 trích dẫn và 20
bài còn lại mỗi bài có ít hơn 10 trích dẫn. Khi đó thì chỉ số H của nhà khoa
học này là 10 (H = 10).
Jorge Hirsch cũng đã nghiên cứu chỉ
số H cho một số nhà khoa học và đưa ra nhận xét: Trong lĩnh vực vật lý lý
thuyết, các nhà khoa học Mỹ được gọi là thành công (successful) sẽ có chỉ số H
= 20 sau 20 năm nghiên cứu; một nhà khoa học nổi tiếng (outstanding) sẽ có chỉ
số H = 40 sau 20 năm; thiên tài khoa học (truly unique individual) sẽ có chỉ số
H = 60 sau 20 năm. Jorge Hirsch cũng đã đề nghị rằng, ở Mỹ một nhà khoa học có
thể được bổ nhiệm vị trí phó giáo sư (associate
professor) nếu người đó có chỉ số H = 12, bổ nhiệm vị trí giáo sư (full professor) nếu người đó có chỉ số H
= 18. Kết quả nghiên cứu của Jorge Hirsch cũng cho thấy, các nhà khoa học được
giải thưởng Nobel thường có chỉ số H trong khoảng từ 35 đến 100. Một số lĩnh
vực thường có chỉ số H cao đó là: Hoá - Lý: 100, Sinh học: 160, Khoa học máy
tính: 70, Kinh tế học: 40,…
Trường Đại học Vinh là một trong những
cơ sở giáo dục đại học có thế mạnh về nghiên cứu cơ bản và khoa học giáo dục.
Trong thời gian qua Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh
hoạt động nghiên cứu khoa học và công bố công trình quốc tế, đặc biệt là công bố
trên các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI. Nhà trường đã có các chính sách cụ
thể nhằm động viên khích lệ các nhà khoa học trong việc công bố công trình trên
các tạp chí khoa học có uy tín như: xét nâng lương sớm cho các cá nhân có bài
báo đăng trên các tạp chí quốc tế có chỉ số IF từ 2.0 trở lên; chế độ khen thưởng
công trình công bố quốc tế theo ba mức: bài báo thuộc danh mục SCI, bài báo thuộc
danh mục SCIE và bài báo quốc tế khác;... Cho đến nay, nhiều nhóm nghiên cứu tại
Trường Đại học Vinh đã và đang hoạt động khá hiệu quả với tần suất công bố quốc
tế đều đặn như: nhóm nghiên cứu Quang học - Quang phổ (do GS.TS. Đinh Xuân Khoa
chủ trì); nhóm nghiên cứu về lĩnh vực Xác suất và Thống kê Toán học (do GS.TS.
Nguyễn Văn Quảng chủ trì); nhóm nghiên cứu về các hợp chất thiên nhiên (do
PGS.TS. Trần Đình Thắng chủ trì); nhóm nghiên cứu về công nghệ nano và vật liệu
mới (do PGS.TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa chủ trì),…
Căn cứ các số liệu phục vụ việc thẩm
định hồ sơ khen thưởng hàng năm cho các tác giả có bài báo đăng trên các tạp
chí khoa học nước ngoài, có ghi rõ địa chỉ Trường Đại học Vinh (Vinh
University), kết quả thống kê từ năm
2010 đến nay cho thấy, công trình công bố quốc tế của các nhà khoa học trong
toàn Trường ngày càng tăng.
NĂM
|
BÀI BÁO QUỐC TẾ
|
BÀI BÁO TRONG NƯỚC
|
TỔNG
|
KINH PHÍ
KHEN THƯỞNG BÀI BÁO NƯỚC
NGOÀI
(VNĐ)
|
SCI
|
SCIE
|
NN KHÁC
|
2010
|
5
|
8
|
7
|
143
|
163
|
33.360.000
|
2011
|
12
|
24
|
8
|
262
|
306
|
115.785.000
|
2012
|
17
|
20
|
26
|
274
|
337
|
145.850.000
|
2013
|
14
|
32
|
22
|
245
|
309
|
65.250.000
|
2014
|
25
|
26
|
28
|
331
|
410
|
112.100.000
|
|
73
|
110
|
91
|
1.255
|
1.525
|
472.345.000
|
(Số liệu cập nhật đến hết tháng 12/2014 theo [6])
Trong đó, số liệu cụ thể trong 3 năm
gần đây như sau:
KẾT QUẢ CÔNG BỐ QUỐC TẾ NĂM 2012 ([6])
TT
|
Ngành
|
Tổng số bài báo
|
Bài báo SCI
|
Bài báo SCIE
|
Bài báo nước ngoài khác
|
1
|
Toán
|
22
|
6
|
14
|
2
|
2
|
Vật lý
|
1
|
1
|
0
|
0
|
3
|
Hóa học
|
7
|
3
|
4
|
0
|
4
|
Sinh học
|
1
|
0
|
1
|
0
|
5
|
Ngoại ngữ
|
2
|
0
|
0
|
2
|
6
|
Giáo dục
|
3
|
0
|
0
|
3
|
7
|
Điện tử Viễn thông
|
6
|
5
|
1
|
0
|
8
|
Công nghệ thông tin
|
0
|
0
|
0
|
0
|
9
|
Xây dựng
|
0
|
0
|
0
|
0
|
10
|
Kinh tế
|
0
|
0
|
0
|
0
|
11
|
Nông Lâm Ngư
|
2
|
2
|
0
|
0
|
12
|
Thể dục
|
0
|
0
|
0
|
0
|
|
Tổng cộng
|
44
|
17
|
20
|
7
|
KẾT QUẢ CÔNG BỐ QUỐC TẾ NĂM 2013 ([6])
TT
|
Ngành
|
Tổng số bài báo
|
Bài báo SCI
|
Bài báo SCIE
|
Bài báo nước ngoài khác
|
1
|
Toán
|
11
|
3
|
6
|
2
|
2
|
Vật lý
|
6
|
5
|
0
|
1
|
3
|
Hóa học
|
23
|
2
|
17
|
4
|
4
|
Sinh học
|
4
|
1
|
3
|
0
|
5
|
Ngoại ngữ
|
1
|
0
|
0
|
1
|
6
|
Giáo dục
|
0
|
0
|
0
|
0
|
7
|
Điện tử Viễn thông
|
5
|
2
|
3
|
0
|
8
|
Công nghệ thông tin
|
13
|
1
|
2
|
10
|
9
|
Xây dựng
|
0
|
0
|
0
|
0
|
10
|
Kinh tế
|
1
|
0
|
0
|
1
|
11
|
Nông Lâm Ngư
|
1
|
0
|
0
|
1
|
12
|
Thể dục
|
3
|
0
|
1
|
2
|
|
Tổng cộng
|
68
|
14
|
32
|
22
|
KẾT QUẢ CÔNG BỐ QUỐC TẾ NĂM 2014 ([6])
TT
|
Ngành
|
Tổng số bài báo
|
Bài báo SCI
|
Bài báo SCIE
|
Bài báo nước ngoài khác
|
1
|
Toán
|
15
|
5
|
7
|
3
|
2
|
Vật lý
|
9
|
4
|
0
|
5
|
3
|
Hóa học
|
21
|
7
|
11
|
3
|
4
|
Sinh học
|
12
|
3
|
6
|
3
|
5
|
Ngoại ngữ
|
2
|
0
|
0
|
2
|
6
|
Giáo dục
|
2
|
0
|
0
|
2
|
7
|
Điện tử Viễn thông
|
5
|
5
|
0
|
0
|
8
|
Công nghệ thông tin
|
7
|
1
|
2
|
4
|
9
|
Xây dựng
|
1
|
0
|
0
|
1
|
10
|
Kinh tế
|
3
|
0
|
0
|
3
|
11
|
Nông Lâm Ngư
|
1
|
0
|
0
|
1
|
12
|
Thể dục
|
1
|
0
|
0
|
1
|
|
Tổng cộng
|
79
|
25
|
26
|
28
|
Thời gian gần đây, một số tổ chức,
cá nhân đã độc lập thống kê và đánh giá kết quả công bố quốc tế của các trường
đại học Việt Nam. Kết quả điều tra có thể chưa thực sự đầy đủ và chính xác,
nhưng số liệu công bố đã phản ảnh phần nào về số lượng và chất lượng các công
trình công bố quốc tế của các trường đại học Việt Nam trong thời gian qua. Các
kết quả nghiên cứu, điều tra chủ yếu chỉ mới dừng lại ở việc thống kê về số
lượng công trình công bố. Gần đây nhất là kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Hien Huynh, Hiep Pham & Abraham Tran ([3]). Để đánh giá chất lượng công trình công bố, nhóm nghiên
cứu trên đã lựa chọn 3 tham số để điều tra và nghiên cứu:
1. Số lượng là số bài báo khoa học
được công bố trên các tạp chí thuộc danh mục ISI trong giai đoạn 2011-2015
(tính đến 26/10/2015);
2. Số lượt các bài báo kể trên được
trích dẫn (kể cả việc tự trích dẫn);
3. Chỉ số H-index trong cùng giai
đoạn, chỉ số H- nội lực, chỉ số tác giả liên hệ của 10% bài báo có ảnh hưởng
cao nhất top 15 cơ sở giáo dục đại học tính theo số lượng công trình công bố.
Bằng cách sử dụng từ
khoá là tên tiếng Anh của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện đang được sử
dụng và được ghi trong bài báo, tại vòng
1 nhóm nghiên cứu lựa chọn ra 15 trường đại học có nhiều bài báo nhất. Đối với
các ĐHQG và ĐH vùng, nhóm nghiên cứu còn sử dụng thêm cả tên trường đại học
thành viên để tìm kiếm. Với những trường hợp tên có khả năng nhầm lẫn cao (vd
như, Univ Sci có thể thuộc ĐHQG Hà Nội hoặc ĐHQG TP. HCM hoặc ĐH Huế), nhóm
nghiên cứu đã sử dụng phương pháp kiểm tra thủ công cho từng bài cụ thể. Sau
đó, tại vòng 2, nhóm nghiên
cứu tiến hành tính toán các chỉ số tổng số lượt trích dẫn và H-index của các bài báo được chọn ra trong vòng
1 và xếp hạng các trường theo từng tiêu chí tương ứng. Phương pháp nghiên cứu
trên của nhóm tác giả đã tối ưu hóa ở mức độ cao đối với độ tin cậy của dữ liệu
và kết quả nghiên cứu.
Bảng 1. Thứ
hạng theo tổng số công trình công bố, tổng số lượng trích dẫn và theo chỉ số H-index
Theo kết quả nghiên cứu trên, trong
giai đoạn 2011-2015 (tính đến 26/10/2015), cán bộ và giảng viên Trường Đại học
Vinh đã công bố được 183 bài báo trên các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI.
Số lượng công bố này tuy còn khiên tốn nhưng nó cũng đã giúp Trường Đại học
Vinh xếp vị trí thứ 9 so với các trường đại học khác trong cả nước về số lượng
công trình công bố (đứng sau ĐHQG TP Hồ
Chí Minh, ĐHQG Hà Nội, ĐH Bách Khoa Hà Nội, ĐHSP Hà Nội, ĐH Y Hà Nội, ĐH Cần
Thơ, ĐH Huế và ĐH Y Dược TP. HCM). Kết quả thống kê của nhóm nghiên cứu hoàn
toàn phù hợp với các kết quả điều tra khác cũng như kết quả thống kê hàng năm
của Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế. Cũng theo kết quả nghiên cứu trên, các
kết quả nghiên cứu của cán bộ, giảng viên của Trường Đại học Vinh đã có được
353 lượt trích dẫn, xếp thứ 12 so với các trường đại học khác trong cả nước. Thứ
hạng này cũng được giữ nguyên đối với chỉ số H - Index (Bảng 1).
Bảng 2. Thứ hạng theo tổng số lượng trích
dẫn (không tính tự trích dẫn), chỉ số H-nội
lực (là chỉ số H-Index dựa trên các bài
báo trong đó tác giả liên hệ là người của Trường Đại học Vinh) và thứ hạng
theo tỷ lệ % tác giả corresponding author (thường
là tác giả đóng vai trò quan trọng)
Bảng 2 cho thấy, có 277 lượt trích dẫn kết
quả nghiên cứu trong các công trình do cán bộ, giảng viên Trường Đại học Vinh
được sử dụng trong các công trình của các tác giả khác. Ngoài ra, Trường Đại học
Vinh xếp vị trí thứ 8 theo chỉ số H- nội lực (cùng vị trí với ĐH Huế, ĐH Y Dược
TP.HCM) cho thấy năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học của Nhà trường. Đặc
biệt, khi xét các bài báo thuộc top 10% ảnh hưởng cao nhất, Trường Đại học Vinh
xếp thứ 4 theo tỷ lệ % tác giả liên hệ (corresponding author) lần nữa khẳng định
chất lượng các công trình công bố của cán bộ, giảng viên Nhà trường.
Tuy nhiên, ở đây nhóm nghiên cứu mới
chỉ thống kê được các bài báo có ghi địa chỉ Vinh University. Hiện nay Trường
Đại học Vinh có một số lượng đông đảo cán bộ, giảng viên của Nhà trường đang
công tác và học tập tại các cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu của các nước khác
và quy định của các cơ sở đó khá khắt khe, khi công bố kết quả nghiên cứu chỉ
được ghi duy nhất địa chỉ trường hoặc viện nghiên cứu nước đó. Ngoài ra, một số
cán bộ giảng viên của Nhà trường tham gia các chương trình nghiên cứu của các
tổ chức, đơn vị khác, do đó trong kết quả công bố chỉ được ghi địa chỉ của đơn
vị tài trợ kinh phí,… Như vậy, trên thực tế số công trình công bố thuộc danh
mục ISI của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Vinh cho đến thời điểm hiện nay sẽ
lớn hơn 183 bài. Hy vọng trong thời gian tới, số lượng và chất lượng công trình
công bố quốc tế Trường Đại học Vinh ngày càng được nâng lên xứng tầm với tiềm
năng nghiên cứu của các nhà khoa học trong toàn Trường.
Bài viết này đã nhận được nhiều ý kiến
đóng góp của GS.TS. Đinh Xuân Khoa, GS.TS. Nguyễn Văn Quảng và các nhà khoa học
khác trong Trường, tác giả xin trân trọng cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Adler, R., Ewing, J., Taylor, P., Citation
Analysis, Statistical Science, 24(1), 1-14, 2009.
[2]
Eugene Gafield, Citation Indexes for
Science: A New Dimension in Documentation through Association of Ideas,
Science, 122(3159), 1955.
[3] Kết
quả nghiên cứu của nhóm tác giả Hien Huynh, Hiep
Pham & Abraham Tran (https://www.facebook.com/scientometrics4vn/).
[4] Kết
quả nghiên cứu của tác giả Hồ Tú Bảo, Trường Khoa học Tri thức Viện Khoa học và
Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản(http://www.jaist.ac.jp/~bao/Writings/DanhgiaNghiencuu.pdf).
[5] Hội đồng
chức danh Giáo sư Nhà nước, Văn bản quy
phạm pháp luật và tài liệu hướng dẫn xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh
giáo sư, phó giáo sư năm 2015, NXb Bách khoa Hà Nội, 2015.
[6] Báo
cáo tổng kết hoạt động KH&CN năm 2014 của Trường Đại học Vinh.
[7] Nguồn
thông tin khác trên internet.