Trước những tác động nhiều chiều của quá trình hội nhập quốc tế,
đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), Việt Nam sẽ đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng dựa chủ yếu vào khoa
học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, bảo đảm để đất nước có thể cạnh tranh trong nền kinh tế của tương lai. Đầu
tư vào vốn con người, phát triển nhanh và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, sử dụng và trọng dụng nhân tài là yêu
cầu cấp bách và quyết liệt của nước ta trong giai đoạn tới. Điều đó
mở ra cơ hội để giáo dục đẩy mạnh đổi mới theo hướng phát triển giáo dục mở.
Tham mưu, định hướng chiến
lược, định vị bản chất thực của giáo dục nói chung và giáo dục mở nói riêng
càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh hiện nay, với xu thế đổi mới công nghệ
trong giáo dục, cần phải đào tạo, hình thành và phát triển những con người của
xã hội, cho xã hội và vì sự phát triển của xã hội. Một hệ thống nội dung thiếu
sự gắn kết trực tiếp với đời sống xã hội, quá hàn lâm, bỏ qua những thứ đang
hiện hữu trong cuộc sống là những rào cản trong quá trình đào tạo con người của
xã hội hiện nay.
Sự bùng nổ và phát triển về
công nghệ giáo dục sẽ tạo ra những phương thức giáo dục phi truyền thống, thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền giáo dục mang tính chuyển đổi sâu sắc vì con
người. Đổi mới tư duy, tìm chọn mô hình phát triển phù hợp nhằm xây
dựng nền giáo dục mở ra cơ hội học tập tốt hơn, có chất lượng hơn cho những người
có nhu cầu, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục là những vấn đề
ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quốc gia, nhất là những nhà
khoa học, người hoạch định chính sách.
NỘI HÀM CỦA PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
MỞ
Nền giáo dục mở được coi là
“triết lý cải cách giáo dục” ở Hoa Kỳ cuối những năm 1960, đầu những năm 1970
và phát triển nhiều năm ở Anh với cách gọi đơn giản là “giáo dục tiến bộ”,
“giáo dục hiện đại”. Mục tiêu của nền giáo dục mở là tạo ra sự bình đẳng về
tiếp cận giáo dục cho mọi người, ai cũng có thể học hành cũng như cơ hội để
phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội và
hội nhập quốc tế, khác với nền giáo dục “đóng” không còn phù hợp.
Khái niệm về “giáo dục mở” cho
đến nay chưa có một cách hiểu thống nhất, nội hàm của nó chưa được các nhà khoa
học, nhà quản lý các cấp, các ngành nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ.
Giáo dục mở được hiểu là mở
rộng khả năng tiếp cận giáo dục cho mọi người so với giáo dục chính quy thông
thường qua nhiều phương thức đào tạo, bằng nhiều nguồn tư liệu từ tài nguyên
giáo dục mở và môi trường học tập khác nhau, các khóa học mở. Giáo dục mở được
coi như một triết lý với các hoạt động thực hành có hiệu quả tích cực, được kỳ
vọng tập trung vào người học, linh hoạt liên thông giữa các yếu tố bên trong và
ngoài hệ thống, tạo cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi người. Từ “mở” trong “giáo
dục mở” có hàm ý: dỡ bỏ bớt các rào cản - hạn chế cơ hội tham dự của người học
cũng như công nhận kết quả học tập tại cơ sở giáo dục.
Giáo dục mở trên thế giới hiện
đã chuyển từ những hoạt động mang tính phong trào sang giai đoạn xây dựng chính
sách và tổ chức thực hiện. Nhiều bài học kinh nghiệm đã được đúc kết. Nhiều
khuyến nghị về chính sách đã được đề xuất trên phạm vị quốc tế.
Là quốc gia đang phát
triển, theo đuổi mục tiêu phát triển nhanh và bền vững,
phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI trở thành quốc gia phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có thu nhập trung bình cao, Việt Nam tất yếu phải
tiến theo xu hướng này. Để có hướng đi chính xác và những bước
đi vững chắc, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam, rất cần
nghiên cứu sâu cơ sở lý luận, đánh giá tổng kết việc xây dựng nền giáo dục mở;
đề xuất giải pháp tham mưu chiến lược và những vấn đề cốt lõi đang đặt ra
trong quá trình hoàn thiện nền giáo dục mở, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
ĐỊNH HƯỚNG NỀN GIÁO DỤC THEO
HƯỚNG MỞ Ở VIỆT NAM
Xây dựng nền giáo dục theo
hướng mở là một trong những bước chuyển lớn của giáo dục nước ta trong tiến
trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; hướng tới một mô hình mới
về phát triển giáo dục trong bối cảnh CMCN 4.0 với mục đích “tăng cường sự tiếp
cận và tham dự thành công trong giáo dục bằng cách dỡ bỏ các rào cản và cung
cấp nhiều con đường đến với học tập và chia sẻ tri thức”.
Hội nhập quốc tế về giáo dục
cùng với những thành tựu về hợp tác quốc tế trong 35 năm đổi mới vừa qua đang
đem lại cho nước ta cơ hội lớn về tăng cường hợp tác với các nền giáo dục tiên
tiến trong khu vực và thế giới, thu hút nguồn lực, học tập kinh nghiệm, trao
đổi thông tin và tri thức nhằm sớm đưa giáo dục Việt Nam tiến bước theo hướng
giáo dục mở với các định hướng sau:
Một là, huy động nguồn lực xã hội
tạo điều kiện cho bất kỳ ai ở bất kỳ trình độ nào, điều kiện nào cũng đều được
tiếp tục học tập theo nguyện vọng; tạo điều kiện xây dựng xã hội học tập và học
tập suốt đời. Đáp ứng nhu cầu nhân lực quốc gia phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội và nhu cầu học tập của mỗi người dân.
Hai là, đổi mới triết lý giáo dục
làm nền tảng cho việc đổi mới cách tiếp cận dạy và học, bắt đầu từ mục tiêu,
vai trò của các chủ thể giáo dục, nội dung và phương pháp dạy và học nhằm liên
tục nâng cao chất lượng giáo dục.
Ba là, hội nhập quốc tế, từng
bước tham gia vào chuỗi thực hành giáo dục mở toàn cầu gồm tài nguyên giáo dục
mở, các khóa học mở trực tuyến và thực hành giáo dục mở.
Bốn là, kết hợp hài hòa giữa đổi
mới tuần tự nhằm từng bước tạo sự chuyển biến theo hướng mở cho hệ thống, đồng
thời cần thiết để cạnh tranh vì sự phát triển, bảo đảm tính ổn định, bền vững.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THAM MƯU CHIẾN
LƯỢC
Thứ nhất, tiếp tục cập nhật khái niệm
giáo dục mở để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây
dựng nền giáo dục theo hướng mở ở Việt Nam, tạo sự
thống nhất trong hành động triển khai thực hiện.
Trong bối cảnh nhận thức về
giáo dục mở tại Việt Nam còn chưa đầy đủ, việc nâng cao nhận thức trong
ngành giáo dục cũng như đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về về vị trí, vai
trò, lợi ích của giáo dục mở là đòi hỏi khách quan, phù hợp với xu thế phát
triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới.
Giáo dục mở hiện đại đã vượt xã
việc học trực tuyến và học tập từ xa, là chìa khóa để hiện đại hóa giáo dục và
có thể áp dụng cho cả học tập chính quy và không chính quy, yêu cầu cung
cấp một thực hành mới dựa trên sự cởi mở ở tất cả các cấp. Nói cách
khác, giáo dục mở đương đại vượt ra ngoài phạm vi của các trường đại
học mở ban đầu, tiếp cận đối tượng thậm chí rộng hơn và đa dạng hơn. Các tổ
chức giáo dục truyền thống đã bắt đầu tham gia vào doanh nghiệp
của giáo dục từ xa bằng cách cung cấp các khóa học được truy cập phần
lớn hoặc độc quyền trực tuyến, hoặc bằng các khóa học mở trực tuyến
và tài nguyên giáo dục mở. Chương trình giảng dạy được thiết
kế theo cách linh hoạt hơn, cho phép người học linh hoạt hơn và
tích hợp một số tiềm năng của giáo dục mở (chẳng hạn như ít hạn
chế hơn về thời gian và địa điểm) vào các khóa học thường xuyên (như trước
đây). Đặc biệt, ngày nay giáo dục mở được hỗ trợ bởi một thành
phần công nghệ mạnh mẽ mà trước đây không thể có được. Những biến đổi
này đã có tác động đến các trường đại học truyền
thống, đến cơ hội học tập suốt đời cho người học…
Thứ hai, xây dựng chính sách trong
chiến lược giáo dục quốc gia hoặc chính sách trong chiến lược công nghệ thông
tin quốc gia để tạo hành lang pháp lý cho giáo dục mở ở Việt Nam.
Việc xây dựng các chính sách
giáo dục mở để thực hiện thành công, hiệu quả nhất trong hệ thống giáo dục Việt
Nam không nên được thực hiện bởi một cơ quan duy nhất, cũng không nên áp dụng
chỉ một cách tiếp cận theo chiều dọc. Thay vào đó, một cách tiếp cận nhiều bên,
nhiều chiều nên được khuyến khích. Các cơ quan liên quan từ Đảng - Quốc hội và
Chính phủ - Chính quyền địa phương - Cơ sở giáo dục cần được coi trọng tham gia
trong quá trình xây dựng chính sách để thúc đẩy các điều kiện, cung cấp cơ sở
hạ tầng cho việc tạo ra một hệ sinh thái giáo dục mở ở Việt Nam. Theo đó:
1) Bộ Giáo dục và Đào tạo có
vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa các bên liên quan, được xem là
cung cấp khuôn khổ hành động phù hợp trong xây dựng chính sách giáo dục mở,
như: tham gia thiết lập chính sách trong chiến lược quốc gia và có thể đưa chính
sách giáo dục mở vào trong chiến lược phát triển giáo dục của ngành; tạo điều
kiện thúc đẩy các sáng kiến về giáo dục mở ở tất cả các cấp học của hệ thống
giáo dục quốc dân cũng như các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân… cùng
xây dựng chính sách phát triển giáo dục mở; phổ biến và cung cấp nền tảng kiến
thức hiện có về giáo dục mở đối với các cơ sở giáo dục trong toàn hệ thống ở
trong nước; hỗ trợ giáo dục chính quy và các hình thức đào tạo khác cho giáo
viên về các hoạt động thực tiễn giáo dục mở; hỗ trợ xây dựng văn bản quy định
quy phạm pháp luật, hành lang pháp lý về việc hướng dẫn, sử dụng các hạ tầng
công nghệ, kỹ thuật hiện có và sẵn có để phát triển giáo dục mở; xây dựng Khung
tham chiếu giáo dục mở quốc gia để các nhà hoạch định chính sách ở cấp
hệ thống cũng như cấp cơ sở có nhận thức đầy đủ hơn về giáo dục
mở, từ đó xác định những lĩnh vực cần mở, mở đến đâu và mở như thế nào,
tùy thuộc vào bối cảnh và điều kiện cụ thể của sự phát triển giáo dục của
quốc gia và địa phương.
2) Đề xuất một số lĩnh vực cần
nghiên cứu, tham mưu ban hành chính sách để phát triển giáo dục mở trong thời
tới:
Xây dựng chính sách để mở rộng
cách tiếp cận về tính mở, chính là xóa bỏ các rào cản về thể chế, kinh tế, công
nghệ, địa lý đối với người học, tạo điều kiện cho người học thuộc bất kỳ thành
phần, độ tuổi, nền tảng văn hóa được tham gia vào nội dung, chương trình giáo
dục, các khóa học, cộng đồng thực hành, các loại môi trường chia sẻ kiến thức,
phương tiện truyền thông, hoạt động trong giáo dục chính quy, không chính quy
và được công nhận việc học và kết quả học tập.
Xây dựng chính sách liên quan
đến những nội dung trong quá trình dạy và học, tạo căn cứ pháp lý để người học,
người dạy được truy cập, sử dụng không bị hạn chế hoặc có thể miễn phí tài
nguyên giáo dục mở.
Các tài liệu dạy và học, các kết quả nghiên cứu, các loại văn bản, sách giáo
khoa, tài liệu khóa học, công trình được công bố, hình ảnh, bài giảng video,
phần mềm, dữ liệu hay bất kỳ loại tài liệu giáo dục nào khác truyền tải thông
tin có thể được sử dụng để dạy và học trong phạm vi công cộng hoặc “bản quyền”
nhưng vẫn “miễn phí”.
Xây dựng chính sách liên quan
đến phương pháp dạy và học trong nhà trường (phương pháp sư phạm) nhằm tăng cường sự tham
gia và hợp tác của người học, cho phép người học thiết kế lộ trình học tập của
riêng họ bằng cách cung cấp cho người học nhiều lựa chọn về tài nguyên học tập
và kiểm tra đánh giá.
Xây dựng chính sách liên quan
đến việc công nhận các văn bằng, chứng chỉ theo các hình thức học tập khác
nhau trong các nhà trường nhằm phát triển công nhận giáo dục mở trong hoàn
cảnh cụ thể.
Xây dựng chính sách liên quan
đến sự hợp tác, phối hợp giữa các bên liên quan theo các cấp độ từ trung ương đến cơ sở và
ngược lại, lưu ý đến việc trao quyền cho người học để họ có thể chủ động
hợp tác với nhau và với tổ chức, cộng đồng để tạo ra kiến thức, xác định lộ
trình học tập và đạt được mục tiêu của cá nhân đề ra.
Xây dựng chính sách nhằm thúc
đẩy nghiên cứu trong nhà trường, thúc đẩy đổi mới sáng tạo khoa học nhanh nhất và
hiệu quả nhất trên thông qua việc chia sẻ và hợp tác, thay vì cố gắng xuất bản
trước để đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ và tính mới trong nghiên cứu khoa học.
3) Đối với các địa phương với
tư cách là đối tác của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc triển khai, phát
triển, tài trợ và đồng quản lý các sáng kiến giáo dục mở, cần xem xét việc cung
cấp năng lực về giáo dục mở của địa phương cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục,
giáo viên để triển khai các chính sách cấp quốc gia về giáo dục mở có chất
lượng, tiết kiệm và hiệu quả.
Thứ ba, xây dựng chính sách để thu hút
các nguồn lực, tạo mọi điều kiện về tiếp cận giáo dục , đảm bảo công bằng xã
hội cho mọi người học, xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập.
Nền tảng của việc huy động
nguồn lực phát triển giáo dục mở thông thường là nguồn nhân lực, vật
lực và tài lực (gọi chung là xã hội hóa giáo dục). Phát triển nguồn lực nhằm
thực hiện có hiệu quả việc phát triển giáo dục mở, tạo ra một khung hành động
chính sách cụ thể. Qua đó thực hiện các mục tiêu của giáo dục ở các cấp học;
tạo những tiền đề thuận lợi thu hút nguồn lực phục vụ cho phát triển giáo dục
mở của Việt Nam.
Các chính sách cần được duy trì
và phát triển lâu dài, được triển khai ở cả cấp Chính phủ và cấp địa phương,
doanh nghiệp, tổ chức; cần trực tiếp hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội
học tập; cần có định hướng rõ ràng kết hợp giữa thể chế hóa với các sáng kiến
nhằm huy động nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục mở./.
TS. Lê Thị Mai Hoa
Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề,
Ban Tuyên giáo Trung ương